Tóm tắt câu hỏi:
Nhà bà H mua lại 1 căn nhà phía đàng sau nhà em, bà H có nhờ nhà em cho sử dụng phần đất thừa thuộc quyền sở hữu của gia đình em để đổ bê tông cổng nhà cho rộng. Vì nhà em cần làm thêm đường ống thoát nước nên đã đào và xây đường ống ở 30 phân đất đó nhưng bà H không đồng ý đã cho con đập phá đường ống nhà em làm và đe dọa đó là đất nhà bà nếu đứa nào động vào bà giết chết. Mẹ em đã sang nói chuyện và muốn 2 nhà xác minh lại thì bà H không nghe, giữa 2 người đã xảy ra xô xát bà H đẩy mẹ em ngã trước và gây sự, giữa 2 người chỉ là túm tóc giật nhau, mẹ em bị bà H cắn 1 vết sâu vào cánh tay khi đó không có ai mà chỉ ít phút sau mọi người nghe tiếng mới tới can ngăn. Chiều hôm đó bà H vẫn khỏe mạnh còn cùng con trai ném đất, đá vào nhà và đập phá cửa và chửi bới nhà em, Tối về bà H bị ngất và được gia đình đưa đi viện 2 hôm sau mới về. Bà H còn kể lể sai sự thật với mọi người trong làng và muốn làm lớn chuyện để đòi nhà em bồi thường cho bà nếu không bà sẽ kiện. Luật sư cho em hỏi một số thắc mắc sau ạ: Thứ 1: Sự việc xảy ra như vậy thì gia đình em thì mẹ em có lỗi gì không. Nếu bà H đem đơn kiện thì gia đình em cần làm gì để bảo vệ lại mình ạ? Thứ 2: Nên giải quyết như nào để ổn thỏa giữa 2 bên? Thứ 3: Gia đình em có nên kiện lại bà H và con trai về tội vu khống và có hành vi ném đất, đá,… vào nhà, phá hoại tài sản nhà người khác không ạ?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Thứ nhất, bạn muốn hỏi mẹ bạn có lỗi trong trường hợp nêu trên không và việc bà H đem đơn kiện để đòi bồi thường gia đình bạn cần làm gì để bảo vệ mình thì công ty chúng tôi xin trả lời bạn như sau:
Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau:
– Có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
+ Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm hại “bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân”.
– Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc “xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
– Có lỗi của người gây thiệt hại:
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường.
– Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: “Người nào… xâm phạm… mà gây thiệt hại… thì phải bồi thường”. Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.
Do vậy, nếu như mẹ bạn có đánh lại bà H khi bà ấy gây sự và đến tối về bà H mới bị ngất thì sự việc bà ấy bị ngất có liên quan gì tới việc mẹ bạn đánh bà ấy hay không điều này bà H nếu kiện bà H phải chứng minh được nếu không sẽ không có căn cứ buộc mẹ bạn bồi thường.
Theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại cho người đó những chi phí sau:
– Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
– Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Thứ hai, bạn muốn hỏi về cách giải quyết ổn thỏa cho trường hợp trên.
Như chúng tôi đã phân tích ở trên bạn có thể xem xét nếu như trường hợp bà H chứng minh được việc mẹ bạn đánh và gây tổn hại đến sức khỏe của bà H thì bà H kiện mẹ bạn phải bồi thường. Thì hai bên nên thỏa thuận và hòa giải các xích mích với nhau để không dẫn đến việc kiện tụng tại tòa. Trường hợp mẹ bạn chứng minh được việc bà H bị ngất với tình trạng sức khỏe của bà H bị giảm sút không phải do lỗi của mẹ bạn thì trường hợp này gia đình bạn không có vi phạm quy định của pháp luật nên việc bà H kiện cũng không có chứng cứ.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ ba, Gia đình bạn có nên kiện lại bà H và con trai về tội vu khống và có hành vi ném đất, đá,… vào nhà, phá hoại tài sản nhà người khác không. Công ty xin cung cấp một số vấn đề liên quan đến tội vu khống để bạn có thể tham khảo để bảo vệ quyền lợi của gia đình mình:
Theo quy định tại bộ luật hình sự khoản 1 Điều 122. Tội vu khống
“1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.”
Theo quy định trên, một hành vi sẽ bị coi là phạm tội vu khống khi có một trong các biểu hiện sau đây:
– Tạo ra những thông tin không đúng sự thực và loan truyền các thông tin đó mặc dù biết đó là thông tin không đúng sự thực.
– Tuy không tự đưa ra các thông tin không đúng sự thực nhưng có hành vi loan truyền thông tin sai do người khác tạo ra mặc dù biết rõ đó là những thông tin sai sự thực.
Lưu ý đối với cả hai trường hợp trên, nội dung của thông tin sai sự thực phải thể hiện sự xúc phạm đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Loan truyền thông tin sai sự thực có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như truyền miệng, qua các phương tiện thông tin đại chúng, viết đơn, thư tố giác …Nếu người phạm tội nhầm tưởng thông tin mình loan truyền là đúng sự thực thì hành vi không cấu thành tội phạm.
– Bịa đặt người khác là phạm tội và tố cáo họ trước các cơ quan có thẩm quyền. Đây là một dạng đặc biệt của hành vi vu khống. Đối với dạng hành vi này, tính nguy hiểm cho xã hội của tội vu khống phụ thuộc nhiều vào loại tội bị vu khống.
Như vậy, khi có người xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của bạn, tùy theo mức độ, họ rất có thể sẽ bị khởi tố hình sự với 2 tội danh như trên với điều kiện có yêu cầu khởi tố của bạn tại cơ quan điều tra sau khi tố giác tội phạm tại cơ quan điều tra gần nhất (Công an phường, xã, thị trấn nơi bạn cư trú).
Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra phải tiến hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố.
Do vậy, bạn hoàn toàn có thể tố giác tội phạm đối với tội danh nói trên tại cơ quan điều tra khi có những dấu hiệu bị xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của mình. Như vậy, đầu tiên bạn cần khai báo với chính quyền, công an, cơ quan đoàn thể về vụ việc nói trên nhằm làm rõ vụ việc và bạn có thể tố cáo về hành vi vu khống người khác đến cơ quan có thẩm quyền nếu như xem xét trường hợp của bạn với những điều công ty đã cung cấp ở trên.