Luật, pháp lệnh, nghị quyết là những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành thường xuyên, cập nhật liên tục nhu cầu của đơi sống pháp luật. Vậy nhiệm vụ của Ban soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết là gì? Cùng tìm hiểu bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Nhiệm vụ của Ban soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết:
– Ban soạn thảo có trách nhiệm:
+ Tổ chức việc soạn thảo và chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo.
– Ban soạn thảo có các nhiệm vụ sau đây:
+ Xem xét và thông qua đề cương chi tiết dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết;
+ Thảo luận về nội dung của dự thảo văn bản, tờ trình, nội dung giải trình;
+ Tiếp thu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
+ Bảo đảm các quy định của dự thảo phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng;
+ Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật;
+ Bảo đảm tính khả thi của văn bản.
– Trưởng Ban soạn thảo có các nhiệm vụ sau đây:
+ Thành lập Tổ biên tập giúp việc cho Ban soạn thảo;
+ Chỉ đạo Tổ biên tập biên soạn và chỉnh lý dự thảo văn bản;
+ Tổ chức các cuộc họp và các hoạt động khác của Ban soạn thảo;
+ Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên của Ban soạn thảo.
– Thành viên Ban soạn thảo có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các cuộc họp của Ban soạn thảo, chịu trách nhiệm về:
+ Chất lượng, tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, tính khả thi của các nội dung được phân công trong dự thảo văn bản;
+ Tiến độ xây dựng dự thảo văn bản; trường hợp vì lý do khách quan mà không tham dự được thì phải có ý kiến góp ý bằng văn bản.
2. Thành lập Ban soạn thảo:
– Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập Ban soạn thảo và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo trong những trường hợp sau đây:
+ Khi dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực;
+ Khi dự án luật, dự thảo nghị quyết do Ủy ban thường vụ Quốc hội trình;
+ Khi dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do đại biểu Quốc hội trình, thành phần Ban soạn thảo do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của đại biểu Quốc hội.
– Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì Thủ tướng Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo, cơ quan được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo.
– Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do cơ quan khác, tổ chức trình thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm thành lập Ban soạn thảo và chủ trì soạn thảo.
3. Thành phần Ban soạn thảo:
– Ban soạn thảo gồm:
+ Trưởng ban là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo
+ Thành viên khác là đại diện cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học.
+ Đối với Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì thành phần Ban soạn thảo phải có các thành viên là đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ. Ban soạn thảo phải có ít nhất là chín người.
– Thành viên Ban soạn thảo là chuyên gia, nhà khoa học phải là người am hiểu các vấn đề chuyên môn liên quan đến dự án, dự thảo và có điều kiện tham gia đầy đủ các hoạt động của Ban soạn thảo.
4. Lấy ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết:
– Trong quá trình soạn thảo văn bản, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến của:
+ Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và cơ quan, tổ chức có liên quan
+ Nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến;
+ Đăng tải toàn văn dự thảo văn bản và tờ trình trên cổng thông tin điện tử và của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là 60 ngày, trừ những văn bản được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn, để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.
– Trong thời gian dự thảo đang được lấy ý kiến, nếu cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý lại dự thảo văn bản mà khác với dự thảo đã đăng tải trước đó thì phải đăng lại dự thảo văn bản đã được chỉnh lý.
– Đối với trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản, cơ quan, tổ chức được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị góp ý kiến.
– Ngoài đăng tải để lấy ý kiến theo quy định việc lấy ý kiến có thể thông qua hình thức lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo đề nghị góp ý kiến, tổ chức hội thảo, tọa đàm, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
– Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý và đăng tải nội dung giải trình, tiếp thu trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức mình để Nhân dân biết.
– Đối với dự án, dự thảo do đại biểu Quốc hội soạn thảo, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến theo quy định.
5. Thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình:
– Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Chính phủ;
– Đối với dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập hội đồng thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học;
– Hồ sơ gửi thẩm định bao gồm:
+ Tờ trình Chính phủ về dự án, dự thảo (bản giấy);
+ Báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự thảo (bản giấy);
+ Bản đánh giá thủ tục hành chính trong dự án, dự thảo văn bản, nếu trong dự án, dự thảo văn bản có quy định thủ tục hành chính (bản điện tử);
+ Báo cáo về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án, dự thảo, nếu trong dự án, dự thảo có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới (bản điện tử);
+ Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý (bản điện tử);
+ Bản chụp ý kiến góp ý của các bộ, cơ quan ngang bộ (bản điện tử);
+ Nghị quyết của Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết (bản điện tử);
+ Tài liệu khác.
– Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau đây:
+ Thẩm định sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với mục đích, yêu cầu, phạm vi điều chỉnh, chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh đã được thông qua;
+ Thẩm định sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
+ Thẩm định tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; tính tương thích của dự thảo văn bản với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
+ Thẩm định sự cần thiết, tính hợp lý và chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản, nếu trong dự thảo văn bản có quy định thủ tục hành chính;
+ Điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, tài chính để bảo đảm thi hành văn bản quy phạm pháp luật;
+ Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự thảo văn bản, nếu trong dự thảo văn bản có quy định liên quan đến vấn đề bình đẳng giới;
+ Ngôn ngữ, kỹ thuật và trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản;
+ Trong trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung dự án, dự thảo.
– Báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ ý kiến của cơ quan thẩm định về nội dung thẩm định và ý kiến về việc dự án, dự thảo đủ điều kiện hoặc chưa đủ điều kiện trình Chính phủ. Trong trường hợp Bộ Tư pháp kết luận dự án, dự thảo chưa đủ điều kiện trình Chính phủ thì trả lại hồ sơ cho cơ quan chủ trì soạn thảo để tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo.
– Báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan chủ trì soạn thảo chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi thẩm định.
– Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo và đồng thời gửi báo cáo giải trình tiếp thu kèm theo dự thảo văn bản đã được chỉnh lý đến cơ quan thẩm định khi trình Chính phủ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.
Văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015