Tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Hành vi lừa đảo kết hôn.
Tóm tắt câu hỏi:
Chị cho em hỏi là em vừa cưới được một tháng chưa kịp làm đăng kí kết hôn. Vợ bỏ đi theo trai. Mà việc này em đã biết từ trước khi đám cưới. Đã thỏa hiệp với nhau bằng tin nhắn face book. Sau khi đám cưới ngoại tình em có bằng chứng và vài nhân chứng. Như trường hợp của em thì sẽ dùng căn cứ nào để khởi kiện, vì em thấy hành vi của vợ em mang tính lừa đảo.?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
2. Nội dung pháp lý:
Theo thông tin của bạn thì bạn và vợ bạn chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa có đăng ký kết hôn. Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải thích: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau như là vợ chồng”.
Theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Như vậy, mối quan hệ của hai bạn chưa phải là mối quan hệ vợ chồng. Trên thực tế về mặt pháp luật, hai bạn chưa ràng buộc bất kỳ nghĩa vụ, trách nhiệm nào. Chỉ khi hai bạn đã thực hiện thủ tục đưng ký kết hôn thì lúc này các quyền lợi và nghĩa vụ mới được phát sinh và được pháp luật bảo vệ.
Do đó, nếu việc vợ bạn đơn thuần nói dối bạn về chuyện tình cảm khi thực hiện đám cưới mà chưa đăng kí kết hôn thì pháp luật không can thiệp. Trên thực tế, pháp luật chỉ can thiệp khi bạn và vợ bạn đã xác lập mối quan hệ vợ chồng hợp pháp. Theo đó, người có hành vi vi phạm tùy theo tính chất và mức độ có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự:
+ Việc xử lý hành chính sẽ theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 (có hiệu lực từ 11/11/2013) Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tùy hành vi vi phạm mà mức phạt tiền thấp nhất là 300.000 đồng và cao nhất là 30.000.000 đồng (Điều 28 và Điều 48).
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân qua tổng đài: 1900.6568
+ Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
"1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm."
Tuy nhiên để xử lý hình sự về hành vi này thì này luật quy định phải gây hậu quả nghiêm trọng (như là: có con chung; người phụ nữ có hành vi tranh cướp chồng; người chồng đánh đập, ngược đãi vợ con mình; lấy tài sản chung của gia đình để mua sắm, chu cấp cho "bên kia"; nghe theo lời "vợ nhỏ" gây chia rẽ hạnh phúc, về thúc ép xin ly hôn vợ…) hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tái phạm.
Như vậy, trường hợp của bạn chưa đăng ký kết hôn nên giữa hai người chưa hề phát sinh các quyền và nghĩa vụ nào của vợ , chồng được pháp luật quy định và bảo vệ. Vì vậy, hành vi lừa dối tình cảm của vợ bạn không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Bạn không thể khởi kiện trong trường hợp này. Tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình quy định về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn:
“2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.