Đánh bạc ăn thua bằng tiền, hiện vật diễn ra ngày càng phổ biến. Nó gây ảnh hưởng tiêu cực tới hạnh phúc gia đình, tình trạng tội phạm diễn ra ngày càng tăng làm cho trật tự xã hội không ổn định. Dưới đây là bài viết về cấu thành tội đánh bạc, mức hình phạt tù đối với tội đánh bạc theo Điều 321 Bộ luật hình sự 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phân tích dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc:
- 2 2. Mức hình phạt với tội đánh bạc theo Điều 321 Bộ luật hình sự:
- 3 3. Đánh bạc nhưng không bị bắt quả tang thì có bị xử phạt không?
- 4 4. Đồng phạm trong tội đánh bạc sẽ bị xử lý như thế nào?
- 5 5. Trường hợp đánh bạc dưới 5 triệu đồng có bị truy cứu hình sự không?
- 6 6. Đứng xem đánh bạc có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
1. Phân tích dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc:
Thứ nhất, chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định theo luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó:
+ Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội mà mình gây ra.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo pháp luật quy định.
Như vậy, cứ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội đánh bạc nếu có hành vi vi phạm đủ cấu thành tội đánh bạc.
Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là sát phạt nhau, tư lợi và mục đích là nhằm lấy tiền, tài sản từ người thua bạc.
Thứ ba, khách thể của tội phạm
Đánh bạc là hành vi bị xã hội lên án và nghiêm trị. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh trật tự công cộng, ảnh hưởng tới cuộc sống của chính mỗi gia đình, nếp sống văn minh của xã hội vì đây được xem là một tệ nạn xã hội.
Thứ tư, mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan:
– Có sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hay bằng hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng.
Trường hợp tiền hay hiện vật có giá trị dưới năm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội đánh bạc.
– Trường hợp người phạm tội đã có hành vi đánh bạc trái phép và tiền hay hiện vật đánh bạc có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên.
Về tiền và hiện vật đánh bạc được xác định chính là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ ở chiếu bạc, thu được trong người đánh bạc hay ở những nơi khác mà đủ cơ sở để xác định đã được hay sẽ được dùng để đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi giá trị tiền đánh bạc từng lần có trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên.
– Phân biệt các trường hợp khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc:
+ Trường hợp tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu (5.000.000 đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh đó. Ví dụ: Anh A, cô B, ông C, anh D đánh bài tiến lên mỗi lần đánh người thua phải trả 7.000.000 đồng thì A, B, C, D sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
+ Trường hợp đánh bạc từ 2 lần trở lên mà mỗi lần đánh có tổng tiền, giá trị hiện vật bằng hoặc trên mức tối thiểu thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc kèm với tình tiết tăng nặng là phạm tội 2 lần trở lên quy định ở Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
+ Trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với mỗi người là tổng số tiến, giá trị hiện vật của tất cả người cùng đánh bạc lúc đó.
+ Trường hợp đánh bạc mà tổng số tiền để đánh bạc của từng lần đánh đều ở dưới mức tối thiểu 5.000.000 đồng (chưa từng bị kết án về một trong các tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc chưa được xóa án tích) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
+ Trường hợp một lần chơi lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa…để tính là một lần đánh bạc chính là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa hay một trận bóng đá…người chơi chia làm nhiều đợi để chơi thì trách nhiệm hình sự được xác định cho người chơi một lần đánh chính là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong tất cả đợt đó.
Lưu ý: Khi xác định tội đánh bạc đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc củạ tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc riêng để xem xét như trên.
- Hậu quả:
Tội đánh bạc chỉ quy định hành vi khách quan mà không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Biết là đánh bạc đem lại nhiều hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng tới cho gia đình xã hội như hạnh phúc gia đình tan vỡ, khiến cho tình trạng tội phạm có thể diễn ra nhiều hơn như trộm cắp, cướp, giết người, gây rối trật tự công cộng… Pháp luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội vì hậu quả mà tội đánh bạc gây ra có thể cấu thành tội phạm khác thậm chí có yếu tố nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Lúc đó, đánh bạc mà gây ra những hành vi gây tội khác thì người phạm tội bị truy cứu đối với tội tương ứng theo luật định.
2. Mức hình phạt với tội đánh bạc theo Điều 321 Bộ luật hình sự:
Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 2 khung hình phạt:
– Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm áp dụng cho trường hợp phạm tội sau:
+ Có tính chất chuyên nghiệp chính là sử dụng việc đánh bạc làm nguồn sống chính.
+ Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên.
+ Sử dụng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.
+ Tái phạm nguy hiểm.
Ngoài hình phạt chính nêu trên người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
3. Đánh bạc nhưng không bị bắt quả tang thì có bị xử phạt không?
Tóm tắt câu hỏi:
Em có tham gia đánh bạc nhưng tại thời điểm cơ quan công an đến bắt thì em đã về rồi, không có mặt ở đó. Nhưng bị các đối tượng khác khai ra. Vậy có bị kết tội đánh bạc không hoặc như vậy bị xử lý như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Căn cứ theo Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, trong quá trình lấy lời khai của những người có hành vi phạm tội đã bị bắt mà phát hiện ra hành vi phạm tội của những người phạm tội khác chưa bị bắt thì những người có hành vi phạm tội chưa bị bắt này cũng sẽ bị áp dụng các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật như triệu tập, truy nã… để xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo đó bạn tham gia đánh bạc, mặc dù không bị bắt quả tang tại chiếu bạc nhưng bị các đối tượng bị bắt khác khai ra. Do đó bạn vẫn bị triệu tập theo quy định của pháp luật để làm rõ về hành vi đánh bạc nói trên, qua hoạt động điều tra, nếu có đủ các căn cứ xác định hành vi đánh bạc trái phép của nhóm đánh bạc này có sự tham gia của bạn đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc thì bị truy tố trách nhiệm hình sự
Căn cứ theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Tội đánh bạc.
Trường hợp hành vi đánh bạc không đủ các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc tại điều 321 trên mà chỉ là hành vi vi phạm hành chính thì hành vi đó sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể là tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về hành vi đánh bạc trái phép.
4. Đồng phạm trong tội đánh bạc sẽ bị xử lý như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi được thuê làm nhiệm vụ đóng mở cửa sới bạc mà trong kết luận điều tra của công an là đồng phạm đánh bạc thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Luật sư tư vấn:
Căn cứ theo Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định đồng phạm. Cũng căn cứ theo Điều 321, Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định tội đánh bạc.
Như vậy, nếu cơ quan điều tra kết luận bạn là đồng phạm trong tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 321, Điều 322 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Căn cứ tùy từng mức độ hành vi thì sẽ có mức hình phạt tương ứng với bạn.
Tuy nhiên, bạn chưa nói cụ thể số tiền cơ quan công an thu được trên chiếu bạc là bao nhiêu. Nếu số tiền hay hiện vật cơ quan công an thu được có giá trị dưới 5 triệu đồng thì bạn sẽ được miễn trách nhiệm hình sự.
5. Trường hợp đánh bạc dưới 5 triệu đồng có bị truy cứu hình sự không?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có người bạn phạm tội đánh bạc. Bị bắt tổng sới thu được 2.3 triệu, bản thân người đó có 500 nghìn đồng, tuy nhiên trước đó chưa được xoá án tích tội đánh bạc, bị xử phạt 10 triệu đồng, Hỏi luật sư lần này sẽ bị sử phạt như thế nào. Cảm ơn
Luật sư tư vấn:
Theo như bạn trình bày, bạn của bạn bị bắt về tội đánh bạc, tổng thu được 2.3 triệu đồng trên chiếu bạc, bản thân người đó có 500 nghìn đồng, tuy nhiên trước đó chưa được xoá án tích tội đánh bạc, bị xử phạt 10 triệu đồng. Căn cứ bạn đưa ra không rõ ràng, trước khi bị bắt về tội đánh bạc này, bạn của bạn đã bị xử phạt về tội đánh bạc hay tổ chức đánh bạc hay chưa? Dựa trên thông tin bạn đưa ra, chúng tôi phân tích theo chiều hướng sau:
Nếu bạn của bạn bị bắt về tội đánh bạc, trên chiếu tổng thu được 2.3 triệu đồng, bạn của bạn có 500.000 đồng để đánh bạc, trước đó bạn của bạn đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết tội về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc mà chưa được xóa án tích. Căn cứ theo khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017:
Như vậy, bạn của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 321 nêu trên, bạn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Để có thể giảm bớt trách nhiệm hình sự, bạn của bạn nên tham khảo các khoản trong Điều 51 Luật hình sự năm 2015 và Điều 54 Luật hình sự năm 2015.
Nếu bạn của bạn bị bắt về tội đánh bạc, trên chiếu tổng thu được 2.3 triệu đồng, trước đó chưa bị xử phạt hay bị kết án về tội đánh bạc hay tổ chức đánh bạc, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị kết án về tội đánh bạc hay tổ chức đánh bạc mà đã được xóa tích thì bạn của bạn chưa đủ căn cứ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt theo nội dung tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP.
Như vậy, với trường hợp đánh bạc bạn của bạn chưa đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt hành chính với số tiền phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
6. Đứng xem đánh bạc có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tóm tắt câu hỏi:
Cho em hỏi em trai của em bị bắt trong 1 nhóm đang đánh bạc. Lúc bị bắt trong người không có tiền, chỉ có 1 điện thoại ip7 và phương tiện là chiếc xe số sirius. Lúc này em của em không có tham gia đánh, chỉ đứng ngoài. Cho em hỏi nếu như vậy em sẽ bị phạt như thế nào ạ. Em xin cám ơn ạ.
Luật sư tư vấn:
Theo thông tin bạn cung cấp thì em trai của bạn bị bắt trong một nhóm đánh bạc mặc dù không tham gia đánh bạc, và bị tịch thu điện thoại và phương tiện đi lại. Để xác định em trai của bạn có bị xử phạt hay không thì cần xem xét các phương diện sau:
Thứ nhất, về trách nhiệm pháp lý phát sinh đối với em trai bạn khi bị bắt quả tang tại một vụ việc đánh bạc.
Theo thông tin, em bạn bị bắt trong một vụ việc đánh bạc khi cơ quan công an phát hiện ra và bắt quả tang hành vi đánh bạc. Hiện nay về tội đánh bạc, tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015.
Trong trường hợp người tham gia đánh bạc không đủ yếu tố để cấu thành tội đánh bạc, thì người tham gia đánh bạc có thể bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc theo quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ.
Căn cứ theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự 2015 và quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ- CP của Chính phủ thì trường hợp em trai của bạn có một trong những hành vi đánh bạc trái phép một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền hoặc hiện vật; hoặc có hành vi cá cược bằng tiền trong các hoạt động vui chơi giải trí, hoặc đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép… thì tùy vào mức độ vi phạm, tổng số tiền và hiện vật dùng để đánh bạc thì em trai của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc.
Tuy nhiên, theo thông tin cung cấp thì em trai của bạn không tham gia đánh, chỉ đứng xem. Trong trường hợp này, hành vi của em trai bạn không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời nếu em trai của bạn không có các hành vi khác như nhận gửi, tiền, cầm đồ cho hành vi đánh bạc; hoặc có hành vi giúp đỡ, che dấu việc đánh bạc, hay cho người khác sử dụng tài sản, chỗ ở hợp pháp của mình dùng để đánh bạc thì trong trường hợp này, em trai bạn cũng không bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc.
Như vậy, từ những căn cứ nêu trên thì trong trường hợp em trai của bạn chỉ đứng xem và không đảm nhiệm bất cứ vai trò gì trong việc đánh bạc hay có một trong những hành vi được quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ- CP thì trong trường hợp này, em trai của bạn sẽ không phải chịu bất cứ trách nhiệm pháp lý gì, và sẽ không bị phạt dưới bất kỳ hình thức nào.
Về việc em trai bạn bị bắt khi đang đứng xem một nhóm người đánh bạc. Mặc dù theo thông tin em trai bạn không tham gia đánh bạc, chỉ đứng xem, nhưng rõ ràng tại thời điểm bắt quả tang vụ việc đánh bạc, cơ quan công an không thể xác định ngay về việc em trai của bạn có tham gia đánh bạc hay không khi em trai của bạn có mặt tại hiện trường vụ việc đánh bạc. Do vậy, việc bắt, tạm giữ người là hoàn toàn cần thiết, và được xác định là trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Nếu thông qua quá trình điều tra, xác minh xác định vụ việc đánh bạc ở cơ quan điều tra nhận định không liên quan đến em trai bạn hoặc trong trường hợp em trai bạn bị tạm giữ nhưng Viện kiểm sát xác định việc tạm giữ không có căn cứ khi em trai bạn không tham gia đánh bạc mà chỉ đứng xem đánh bạc thì trong trường hợp này, cơ quan điều tra phải trả tự do ngay cho em trai của bạn.
Tuy nhiên, nếu qua quá trình điều tra, em trai bạn cũng tham gia đánh bạc trước đó, dù thời điểm bị bắt quả tang em trai bạn chỉ đứng xem thì trong trường hợp này em trai bạn vẫn được xác định là người đánh bạc và tùy vào mức độ vi phạm mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt hành chính.
Thứ hai, về việc tạm giữ phương tiện cũng như chiếc điện thoại của em trai bạn:
Tại thời điểm bắt người phạm tội quả tang của vụ việc đánh bạc thì cùng với việc bắt em trai bạn, thì cơ quan có thẩm quyền có quyền thu giữ, tạm giữ những chứng cứ, đồ vật có liên quan đến việc đánh bạc. Trong trường hợp này, tại thời điểm bị bắt, em trai bạn bị tình nghi phạm tội, nên chiếc điện thoại Iphone 7 và phương tiện là chiếc xe máy Sirius có thể bị tạm thời thu giữ, bởi những tài sản này có thể được xác định là những tài sản có thể là vật chứng liên quan đến vụ việc đánh bạc này. Bởi theo quy định tại Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Đồng thời theo quy định tại Khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ- HĐTP. Trong trường hợp khi điều tra vụ việc đánh bạc này, Cơ quan điều tra xác định được em trai bạn không có liên quan đến vụ việc đánh bạc, và những tài sản như IPhone 7 và chiếc xe máy Sirius chỉ là tài sản của em trai bạn, không được xác định là vật chứng, là tiền hay hiện vật dùng để đánh bạc, thì trường hợp này sẽ không có căn cứ để tịch thu, hay tạm giữ và căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, những tài sản này sẽ được trả lại cho em trai bạn.
Tuy nhiên, nếu như có căn cứ và bằng chứng, chứng cứ cho thấy tài sản này được em trai bạn mang đi để cầm cố, và sẽ được dùng để tham gia đánh bạc thì chiếc điện thoại và xe máy này sẽ được xác định là vật chứng và được tạm giữ, tịch thu và xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy, tùy vào việc em trai của bạn có tham gia đánh bạc và có vai trò gì khác trong việc tổ chức, giúp đỡ hành vi đánh bạc trái phép hay không mà em trai của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính hay không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý gì. Đồng thời, với chiếc điện thoại IPhone 7 và chiếc xe máy Sirius sẽ được trả lại cho em trai bạn khi không có căn cứ xác định đây là vật, phương tiện dùng để đánh bạc, hay là vật chứng trong vụ việc đánh bạc trên.