Tóm tắt câu hỏi:
Năm 1992, gia đình tôi được bà tôi cho đất nhưng không có giấy chuyển nhượng. Đến năm 1993 bố tôi làm nhà có gọi chú tôi (em ruột bố tôi) vào để cho một lô nhưng chú ấy đã từ chối. Năm 1994, bà tôi mất, bố tôi được cấp quyền sử dụng đất. Vì nhà tôi không có con trai nên cô tôi, bác và chú tôi đòi kiện gia đình tôi để chia phần. Luật sư cho tôi hỏi liệu gia đình tôi có phải chia phần quyền sử dụng đất này như vậy không?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Năm 1994, bà của bạn mất không để lại di chúc, lúc còn sống thì bà của bạn cho gia đình bạn đất nhưng không có giấy tờ gì chứng minh rằng có sự chuyển giao quyền cũng như hợp đồng tặng cho. Và việc chú bạn từ chối mảnh đất cũng không có chứng cư chứng minh về sự từ chối đó. Như vây, mảnh đất mà nhà bạn sử dụng để xây nhà được coi là di sản thừa kế mà bà bạn để lại.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự thì:
“Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Tuy nhiên, theo quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế thì:
“Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, cần phải xem xét cụ thể thời gian bà của bà mất để tính được việc có chia được di sản thừa kế không. Nếu:
– Vấn còn thời hiệu thì di sản đó phải chia đều cho các con của bà bạn với những phần tỉ lệ bằng nhau.
– Hết thời hiệu khởi kiện thì người khởi kiện sẽ không còn quyền khởi kiện nữa.