Hiện nay, “Bộ luật dân sự 2015” chưa có quy định nào cụ thể giải thích về thời hạn vay.Tuy nhiên, trong một số văn bản hướng dẫn về hợp đồng vay tín dụng cũng có đề cập đến vấn đề này. “Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng”. Theo cách định nghĩa này thì thời hạn cho vay giữa tổ chức tín dụng và một bên cá nhân thực hiện vay là căn cứ để xác định thời điểm trả nợ, tránh những sự phát sinh không đáng có xảy ra. Tuy nhiên, thời hạn vay là một khoảng thời gian từ khi hợp đồng có hiệu lực đển khi hết hạn của hợp đồng, hết thời hạn vay thì bên vay có nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi cho bên cho vay. Dựa vào thời hạn vay có thể xác định được lãi suất là bao nhiêu, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Nếu hết thời hạn vay mà bên vay không trả nợ được hoặc trả nợ không đúng hạn thì số nợ đó được coi là nợ quá hạn và bên vay phải chịu trách nhiệm đối với việc trả lãi suất quá hạn theo quy định của pháp luật.
Thông thường, khi tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản, ngoài vấn đề thời hạn vay, đối tượng vay và chủ thể cho vay thì các bên còn chútrọng đến lãi suất vay. Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ người cho vay. Cụ thể, lãi suất là phần trăm tiền gốc phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian mỗi thời kỳ (thường được tính theo năm). Ví dụ, một cá nhân vay vốn từ ngân hàng để kinh doanh thì cá nhân sẽ phải chịu một phần lãi suất dựa trên tiền gốc. Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Tuy nhiên, trong hợp đồng vay tài sản thông thường thì các bên cần phải xác định cụ thể về lãi suất, các bên có thể thỏa thuận sử dụng phần lãi suất của ngân hàng công bố hoặc tự đưa ra phần lãi suất ấn định. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 476 “Bộ luật dân sự 2015” có đưa ra “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”và theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 “Bộ luật dân sự 2015” “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.