Trước hết, có thể hiểu yêu cầu về dân sự là việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ có liên quan đến việc dân sự của mình hoặc của cá nhân khác, hoặc yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận cho mình quyền dân sự phát sinh trong lĩnh vực dân sự được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Các yêu cầu dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định cụ thể tại Điều 26 BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011. Cụ thể:
Một là, yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Theo Điều 17 “Bộ luật dân sự 2015” thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Do đó, năng lực hành vi dân sự phản ánh khả năng của cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi đó của mình. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống cũng như số phận pháp lý của một con người. Chính vì thế, việc xác định năng lực hành vi dân sự của một người không thể tùy tiện mà cần có sự xác nhận của cơ quan có chuyên môn đồng thời được cơ quan có thẩm quyền xác nhận bằng một quyết định
Hai là, yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó.
Theo khoản 1 Điều 52 BLDS thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.
Theo quy định của pháp luật thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt (Điều 74 BLDS) nếu người đó biệt tích từ sáu tháng trở lên.
Ba là, yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
Điều 78 BLDS có quy định thời gian để căn cứ tuyên bố một người mất tích là khi một người biệt tích hai năm trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực người đó còn sống hay đã chết.
Để đảm bảo quyền và lợi ích cho những người liên quan, đồng thời góp phần đảm bảo việc quản lý về hộ khẩu, pháp luật cho phép những người có quyền và lợi ích liên quan có quyền yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích. Để giải quyết vấn đề này của đương sự thì pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Bốn là, yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
Khi một cá nhân chết sẽ làm chấm dứt tư cách chủ thể của mình trong mọi quan hệ pháp luật. Do vậy, khi tòa án tuyên bố một người là đã chết đồng nghĩa với việc kể từ sau khi quyết định đó có hiệu lực thì người đó sẽ không còn tư cách chủ thể trong bất kỳ một quan hệ pháp luật nào.
Điều 81 BLDS quy định điều kiện để Tòa án tuyên bố một người là đã chết: Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; biệt tích trong chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống.
Năm là, yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài là bản án, quyết định được Tòa án nước ngoài thụ lý giải quyết và ra quyết định.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Các bản án, quyết định được thực hiện bởi Tòa án nước ngoài nhưng cần được thi hành tại Việt Nam. Mặt khác, do bản án, quyết định được yêu cầu công nhận và cho thi hành ở Việt Nam được Tòa án nước ngoài ra nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết yêu cầu cũng phải có thẩm quyền tương đương với cơ quan ra bản án, quyết định giải quyết yêu cầu cũng phải có thẩm quyền tương đương với cơ quan ra bản án, quyết định nước ngoài. Chính vì vậy, pháp luật nước ta quy định thẩm quyền này thuộc về Tòa án.
Sáu là, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
Đây là một trong những loại việc được bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS.
Bảy là, yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án được thực hiện, trong đó, người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án là tài sản nằm trong khối tài sản chung thì cần thiết phải có sự xác minh phần tài sản nào thuộc sở hữu của người phải thi hành án để tiến hành thi hành án.
Tám là, các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.