Tại sao đồng tính ngày càng nhiều?
Có phải là bệnh không? Đây đang là câu hỏi được quan tâm rất nhiều ở thời điểm
hiện tại. Cùng theo dõi bài viết của chúng mình để nắm rõ câu trả lời
nhé.
Mục lục bài viết
1. Đồng tính là gì?
Đồng tính hay còn gọi là đồng tính luyến ái là thuật ngữ dùng để chỉ sự hấp dẫn trong quan hệ tinh cảm, tình dục, tình yêu hoặc quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính, dù là tạm thời hay lâu dài. Đồng tính luyến ái cũng là một thuật ngữ mô tả “ý thức về bản dạng của một người dựa trên sự hấp dẫn, hành vi liên quan và sự tham gia vào cộng đồng của những người khác có chung những điểm hấp dẫn đó”.
2. Các nhóm xu hướng tính dục phổ biến hiện nay:
2.1. Lesbian – Đồng tính luyến ái nữ:
Lesbian hay còn gọi là đồng tính nữ là từ dùng để chỉ những người phụ nữ có xu hướng bị hấp dẫn bởi phụ nữ, bất kể là về mặt tình dục hay tình cảm.
2.2. Gay – Đồng tính luyến ái nam:
Tương tự như đồng tính luyến ái nữ, đồng tính luyến ái hay đồng tính luyến ái nam là khái niệm mô tả khuynh hướng tình dục hoặc tình yêu giữa hai người nam, người đồng tính nam sẽ bị thu hút và nhận diện về mặt tinh thần bởi người cùng giới.
Tương tự như quan hệ nam nữ, đồng tính là tập hợp của những rung động cả về thể xác lẫn tình cảm chứ không đơn thuần là dục vọng. Một điều quan trọng cần ghi nhớ là đồng tính luyến ái không phải là bệnh
2.3. Bisexual – Song tính luyến ái:
Song tính luyến ái hay còn gọi là song tính luyến ái chỉ những người bị hấp dẫn về thể chất và tinh thần với cả hai giới (nam và nữ). Người lưỡng tính sẽ gặp khó khăn trong công việc họ thích nam hay nữ hơn vì điều đó phụ thuộc vào tâm hồn và cảm xúc của mỗi người.
2.4. Transgender – Người chuyển giới:
Người chuyển giới là những người có thể thuộc về một giới tính nhưng cảm thấy rằng họ thuộc về một giới tính khác, sau đó có những người có thể suy nghĩ chính thức hoặc về mặt y tế về việc trở lại giới tính mong muốn của họ. Người chuyển giới thường được xếp chung với đồng tính nữ và đồng tính nam.
3. Đồng tính có phải là bệnh?
Với nhóm đối tượng có triệu chứng thực thể khi mới sinh, có thể phân biệt hai giai đoạn bệnh: giai đoạn bào thai (tức là bệnh còn trong tử cung) và giai đoạn bệnh sau khi sinh. Trên thực tế lâm sàng thường gặp ở dạng bào thai, ít gặp ở dạng sơ sinh.
Nam hóa ở bé gái: 60% trường hợp. Trong trường hợp đầu tiên, bệnh gây ra sự gia tăng tiết androgen trước khi các cơ quan sinh dục phát triển đầy đủ, dẫn đến sự phát triển của một bộ phận giả ái nam ái nữ. Biểu hiện thực thể: âm vật hiện đại như dương vật, môi lớn, môi bé, âm đạo, tử cung đều không phát triển.
Trường hợp thứ hai, tăng tiết androgen sau khi phân biệt cơ quan sinh dục ngoài và đường sinh dục trong, ở bé gái mắc bệnh, lúc này đã phát hiện thấy âm vật.
Trường hợp thứ ba, thừa androgen sau sinh: Ở bé gái mới sinh cơ quan sinh dục phát triển bình thường, nhưng càng về sau cơ quan sinh dục biến đổi theo sự rối loạn chức năng của vỏ thượng thận. Do đó, các triệu chứng lâm sàng có thể bao gồm: tóc bạc sớm ở nam giới, âm vật to, tử cung, suy tuyến vú, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc vô sinh.
Ở trẻ em: Sau khi sinh rối loạn phát triển sinh dục với các biểu hiện: phát triển sớm các triệu chứng sinh dục phụ, dương vật to lên, có tuyến tiền liệt nhưng không có tinh hoàn và không sinh tinh. Trẻ em có ham muốn tình dục và cương cứng ngay từ nhỏ, khi bệnh phát sinh ở tuổi dậy thì thường kèm theo cao huyết áp.
Nhiều quốc gia đã chính thức loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20. Theo đó, chỉ nên kết luận đây là biểu hiện của xu hướng tính dục chứ không phải là sự suy nghĩ hay đạo đức suy đồi. Vì vậy, những người đồng tính rất cần sự cảm thông, chia sẻ của xã hội để chung sống hòa thuận.
4. Tại sao đồng tính ngày càng nhiều?
Lâu nay, chúng ta đều cho rằng: tâm lý non nớt, sai lệch trong môi trường sống… và nhiều yếu tố tinh thần khác nhau đã gây nên tình trạng rối loạn xu hướng tính dục, biến những người đồng tính bình thường thành những người đồng tính bị cả xã hội lên án. Những người đồng tính đã phải sống trong mặc cảm, không được thể hiện mình và trong những người đồng tính đó có rất nhiều thiên tài, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Năm 1991, một công trình đã khiến các nhà khoa học sửng sốt – đó là công trình giải phóng một phần không gian bên dưới đồi của 41 người chết vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Trọng lượng đó có 16 người đồng tính luyến ái, trong quá trình nghiên cứu khoa học và xem xét nghiêm túc các bằng chứng thu thập được, cho thấy ở những người đồng tính luyến ái, thành phần thần kinh kiểm tra tình dục vi mô ở người và động vật có vú tiên tiến chỉ bằng một nửa so với người bình thường.
Năm 1993, các nhà nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa bộ gen người và đồng tính luyến ái. Họ đã tìm thấy một gen đặc biệt cho đặc điểm giới tính X được truyền từ người mẹ và phổ biến ở những người đồng tính nam.
Đến năm 2003, các nhà nghiên cứu y học xã hội Mỹ cũng tìm ra mối liên hệ giữa đặc điểm bàn tay của nam giới và thái độ chức năng. Do ảnh hưởng của hormone sinh dục nam, đặc biệt là testosterone, nam giới thường có ngón trỏ ngắn hơn ngón đeo nhẫn và bàn tay của phụ nữ đồng tính cũng có điểm này.
Cho đến thời điểm này, đồng tính luyến ái không thể được quy cho nguyên nhân sinh học hay tâm lý. Theo những nghiên cứu mới nhất, khu vực đồ thị trên không của những người thuộc giới tính thứ 3 có sự khác biệt nhất định so với những người thuộc giới tính bình thường.
Rõ ràng, nguyên nhân sinh học có ảnh hưởng không hề nhỏ. Tuy nhiên, chính môi trường gia đình, sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ và tác động của những mâu thuẫn cuộc sống xung quanh cũng là một yếu tố tác động rõ nét đến biểu hiện của hiện tượng này.
5. Định hướng giới tính trong giai đoạn hiện nay:
Ở tuổi trưởng thành hay cụ thể là tuổi dậy thì, sự thay đổi nội tiết tố kèm theo những thay đổi bên ngoài cơ thể sẽ kéo theo những thay đổi về cảm xúc. Xu hướng tình dục là sự xác định sự hấp dẫn về tình cảm, cảm xúc hoặc tình dục mà một người cảm thấy đối với người khác. Xu hướng tình dục được chia thành 3 nhóm chính bao gồm:
Dị tính: Những người thuộc giới tính này bị thu hút cả về thể xác lẫn tinh thần đối với người
Dị tính: Những người thuộc giới tính này bị thu hút bởi cả khả năng nhận dạng sai về mặt tinh thần của người khác giới. Ví dụ, đàn ông bị thu hút bởi phụ nữ và ngược lại. Điều này thường được gọi là khuynh hướng tình dục “thẳng” (thẳng).
Đồng tính luyến ái hay đồng tính luyến ái: Như đã nói ở trên, đây là thuật ngữ dùng để chỉ những người bị hấp dẫn bởi người cùng giới như nam rung động với nam, nữ rung động với nữ, v.v.
Song tính luyến ái (bisexual): Người lưỡng tính có thể bị thu hút bởi những người thuộc cả hai giới.
Ngoài các dạng xu hướng tính dục nêu trên, có một số trường hợp người ta không cảm nhận được bất kỳ sự hấp dẫn tình dục nào hoặc tình dục được xếp vào dạng vô tính (asexual). Những người này có thể không quan tâm đến nhu cầu sinh lý nhưng bản thân họ vẫn có thể có tình cảm nhất định với người khác.
Thích một người cùng giới không có nghĩa là bạn đồng tính, giống như việc yêu một người khác giới được coi là “thẳng”. Ở tuổi dậy thì, việc cảm thấy bị thu hút bởi ai đó hoặc có suy nghĩ tình dục về người cùng giới hoặc khác giới là điều bình thường. Chỉ là cách suy nghĩ của bạn “lọc” qua những cảm xúc hỗn độn của tuổi dậy thì, sự thay đổi nội tiết tố mà thôi.
Nói cách khác, không ai có thể lựa chọn giới tính của mình ngay từ khi sinh ra. Xu hướng tình dục chỉ là một phần tự nhiên của mỗi người.
Hãy luôn nhớ rằng, không có gì sai khi là một phần của cộng đồng LGBT. Chỉ là một bộ phận nào đó trong cộng đồng này không biết và làm gia tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử khiến cuộc sống của những người thuộc cộng đồng LGBT trở nên khó khăn hơn.
6. Làm thế nào để xác định giới tính?
Khám cơ thể: Sử dụng các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như siêu âm và đầu dò trực tiếp, bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra đường sinh dục và tuyến sinh dục để xác định giới tính. Tiến hành xét nghiệm di truyền: Xét nghiệm nhiễm sắc thể (kiểm tra bộ nhiễm sắc thể của bệnh nhân với 46XX đối với nữ, 46XY đối với nam). Máy thử xác định nhiệt độ máu của các nội tiết tố nam và nữ khác nhau như FSH, LH, oestradiol, progesterone, prolactin, testosterone.
Khảo sát tâm lý về tính cách, tâm lý xã hội, sở thích, thói quen trò chuyện với bệnh nhân; Đồng thời tìm hiểu mong muốn của người thân về giới tính của bệnh nhân.