Giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt – Luật Dương Giahttps://luatduonggia.vnMon, 02 Sep 2024 08:44:44 +0000vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.7.12https://luatduonggia.vn/wp-content/uploads/2017/11/cropped-fav-32x32.pngGiữ gìn sự trong sáng của tiếng việt – Luật Dương Giahttps://luatduonggia.vn3232Giáo án Ngữ văn 12 tuần 3: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việthttps://luatduonggia.vn/giao-an-ngu-van-12-tuan-3-giu-gin-su-trong-sang-cua-tieng-viet/Mon, 02 Sep 2024 08:44:20 +0000https://luatduonggia.vn/giao-an-ngu-van-12-tuan-3-giu-gin-su-trong-sang-cua-tieng-viet/Ngôn ngữ chính là giá trị tinh thần của mỗi dân tộc, là niềm tự hào, lòng tự tôn của dân tộc, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài "giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt" để hiểu rõ hơn nhé.

The post Giáo án Ngữ văn 12 tuần 3: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt appeared first on Luật Dương Gia.

]]>
1. Mục tiêu của bài học:

1.1. Kiến thức:

a/ Nhận biết: Nhận biết sự trong sáng của tiếng Việt thể hiện ở những mặt cơ bản và yêu cầu của việc sử dụng tiếng Việt.

b/ Hiểu: Có thói quen rèn luyện kỹ năng nói và viết tiếng Việt rõ ràng.

c/ Vận dụng thấp: Sử dụng từ đặt câu đúng khi nói, viết

d/ Vận dụng cao: Sử dụng TV chuẩn để soạn hoặc viết hoàn chỉnh bài văn trong cuộc sống

1.2. Kĩ năng:

a/ Biết cách: đọc hiểu tiếng Việt

b/ Thông thạo: sử dụng tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt;

1.3.Thái độ:

a/ Hình thành thói quen: sử dụng tiếng Việt rõ ràng

b/ Hình thành nhân cách: tự tin khi sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp

c/ Hình thành nhân cách: yêu tiếng việt

2. Nội dung trọng tâm:

Kiến thức: Nhận thức được sự trong sáng của tiếng Việt thể hiện ở khía cạnh cơ bản và là yêu cầu đối với việc sử dụng tiếng Việt.

Kĩ năng: Phân biệt được hiện tượng trong sáng và không trong sáng trong cách dùng tiếng Việt. Sử dụng truyền hình trong thông tin liên lạc đúng quy tắc, chuẩn mực

Thái độ: Có ý thức và thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt khi sử dụng. Luôn nâng cao hiểu biết về tiếng Việt và rèn luyện các kỹ năng tiếng Việt

Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển:

– Khả năng thu thập thông tin liên quan đến tài liệu

– Kĩ năng hợp tác cùng nhau thực hiện nhiệm vụ học tập

– Khả năng giải quyết các tình huống đặt ra trong giao tiếp tiếng Việt

– Kĩ năng đọc hiểu các văn bản có liên quan để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt

3. Chuẩn bị bài giảng:

3.1. Chuẩn bị giáo viên:

– Giáo án

– Phiếu học tập, trả lời câu hỏi

– Bảng phân công HS làm việc tại lớp

– Bảng phân công nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà

3.2. Chuẩn bị của học sinh:

– Đọc tài liệu trong SGK trước khi trả lời câu hỏi để hiểu bài

– Phiếu làm bài (GV giao từ tiết trước)

– Đồ dùng học tập

4. Tổ chức dạy học:

–   GV yêu cầu HS trả lời một số câu hỏi trắc nghiệm: GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu về bài học bằng cách đưa ra các ví dụ sau để học sinh xác địng cách dùng từ trong câu nào đúng/sai?

1/Tổng thống vàphu nhân.

2/Chị làphu nhânchiều chồng, chăm con.

3/BáoThiếu niên nhi đồng.

4/Thiếu niên nhi đồnglang thang cơ nhỡ.

5/Tổng thống vàvợ.

6/Chị làmột người vợchiều chồng, chăm con.

7/BáoTrẻ em.

8/Trẻ em lang thang cơ nhỡ.

–   HS thực hiện nhiệm vụ:

–  HS báo  cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ: Gợi ý trả lời: 1-3-6-8

– GV nhận xét và dẫn vào bài mới: Đã là người Việt Nam thì bất cứ ai trong chúng ta cũng biết sử dung tiếng Việt trong công việc giao tiếp hàng ngày, nhưng sử dụng tiếng Việt như thế nào để đảm bảo sự trong sáng và đạt hiệu quả cao? Đó là điều chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài học hôm nay.

 5. Hình thành kiến thức:

Hoạt động của GV – HS

Kiến thức cần đạt

Họat động 1: TÌM HIỂU Sự trong sáng của tiếng Việt:(15 phút).

* Thao tác 1 :

Hướng dẫn HS tìm hiểu Sự trong sáng của tiếng Việt:

* GV đặt câu hỏi:

– HS trình bày suy nghĩ qua 1 số d/c cụ thể ( Giải thích nên hay không nên sử dụng các yếu tố nước ngoài, vì sao?

– Có vay mượn

– không lạm dụng

– Đọc và so sánh ba câu văn trong SGK, xác định câu nào trong sáng, câu nào không trong sáng? Vì sao?

– Qua đó theo em biểu hiện thứ nhất của trong sáng tiếng Việt là gì?

HS đọc ví dụ và thảo luận , đại diện nhóm trả lời .

– Lớp trao đổi , nhận xét, rút ra lí thuyết 

– Câu đầu: không trong sáng vì cấu tạo câu không đúng quy tắc (chuẩn mực) ngữ pháp tiếng Việt.

– Hai câu sau: đạt được sự trong sáng vì cấu tạo câu theo chuẩn mực ngữ pháp của tiếng Việt.

– Có trường hợp tiếng Việt được sử dụng linh hoạt, sáng tạo, có sự biến đổi, lúc đó tiếng Việt có đảm bảo được sự trong sáng hay không? Hãy phân tích câu thơ của Nguyễn Duy và câu văn của chủ tịch Hồ Chí Minh để trả lời câu hỏi trên.

– Các từ ngữ dùng sáng tạo trong câu thơ của Nguyễn Duy là những từ nào? Chúng có nét nghĩa mới nào? Chúng được dùng theo biện pháp tu từ nào?

HS: Trong câu thơ của Nguyễn Duy, các từ “lưng, áo, con”được dùng theo nghĩa mới nhưng vẫn theo quy tắc ẩn dụ.

–  Trong câu văn của Bác, từ “tắm” được dùng theo nghĩa mới là gì? Có phù hợp với quy tắc tiếng Việt hay không?

Nhận xét về các từ ngữ nước ngoài được sử dụng trong câu văn của SGK?

HS: Trong câu văn của Bác, từ “tắm”được dùng theo nghĩa mới và đặc điểm ngữ pháp mới. Nhưng đó vẫn là sự chuyển nghĩa nghĩa và đặc điểm ngữ pháp theo quy tắc của tiếng Việt.

Trong cả hai trường hợp, việc sử dụng linh họat, sáng tạo vẫn đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt vì vẫn tuân theo quy tắc (chuyển nghĩa, chuyển tiểu loại) của tiếng Việt.

Câu văn có những từ ngữ nước ngoài được sử dụng không cần thiết vì tiếng Việt vẫn có những từ ngữ thay thế tương xứng.

Trong sáng thì không cho phép pha tạp, vẩn đục. Vậy sự trong sáng của tiếng Việt có cho phép pha tạp của yếu tố ngon ngữ khác không? Qua ví dụ trên, em rút ra biểu hiện thứ hai của sự trong sáng của tiếng Việt là gì?

Hiện tượng lạm dụng tiếng nước ngoài chỉ làm vẩn đục tiếng Việt.

Sự trong sáng của tiếng Việt có cho phép ta nói năng thô tục, bất lịch sự không? Phải nói năng, giao tiếp như thế nào?

– Phân tích tính lịch sự, có văn hoá trong lời nói của các nhân vật trong đoạn hội thoại?

HS: Tính lịch sự, có văn hoá trong lời nói thể hiện ở cách xưng hô, thưa gửi, cách sử dụng từ ngữ:

  o Cách xưng hô:

 Ông giáo:Cụ với tôi, ông với con

à thể hiện sự kính trọng, thân thiết gần gũi.

  Lão Hạc:Ông giáo, chúng mình, tôi với ông

à thể hiện sự tôn trọng của Lão Hạc đối với ông giáo

  o  Cách thưa gửi của Lão Hạc với ông giáo:“ Vâng! Ông giáo dạy phải”

à Sự trân trọng, tin tưởng và có phần ngưỡng mộ của lão Hạc với ông giáo

  o Các từ ngữ: trong sáng, rõ ràng, nhã nhặn, lịch sự

HS: Nêu thêm ví dụ:

  o Trong các trường hợp khác nhau, dùng từchếtcó thể thay thế bằng:khuất núi, quy tiên, từ trần, về cõi vĩnh hằng…

  o Hoặc dùng các nói giảm:

 – Có lẽ chị không còn trẻ lắm.

 – Tôi hỏi thật không phải, chị đã có gia đình chưa?

 – Bạn đừng giận thì mình mới nói.

 – Mình hỏi câu này bạn đừng giận mình đấy…

 

– Vậy theo em, sự trong sáng của tiếng Việt còn thể hiện ở phương diện nào?

+ GV: Mở rộng vấn đề: Bên cạnh những lời văn mang tính lịch sự, có văn hoá, ta vẫn bắt gặp trong văn chương những lời nói không đảm bảo tính lịch sự, trong sáng của tiếng Việt. Ví dụ:

“Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này?”

         (Chí Phèo – Nam Cao).

Tại sao lại có điều đó? Bởi tác giả muốn nhân vật trực tiếp bộc lộ tính cách đối với người đọc qua chính những ngôn ngữ của mình. Lời nói của Chí Phèo trong trích đoạn trên là lời nói của Chí khi đã bị tha hoá trở thành một tên côn đồ, bặm trợn, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

 

I. Sự trong sáng của tiếng Việt:

1. Tìm hiểu ngữ liệu:

 

 

 

“Trong”:có nghĩa là trong trẻo, không có chất tạp, không đục.

  “Sáng”:là sáng tỏ, sáng chiếu, sáng chói, nó phát huy cái trong, nhờ đó phản ánh được tư tưởng và tình cảm của người Việt Nam ta, diễn tả trung thành và sáng tỏ những điều chúng ta muốn nói

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2.Biểu hiện của sự trong sáng của TV:

– Thể hiện ở chuẩn mực và việc tuân thủ đúng chuẩn mực của tiếng Việt

+ Phát âm theo chuẩn của một phương ngữ nhất định, chú ý cách phát âm ở phụ âm đầu, phụ âm cuối, thanh điệu.

+  Tuân theo quy tắc chính tả, viết đúng phụ âm đầu, cuối, thanh điệu các từ khó.

+  Khi nói viết phải dùng từ đúng nghĩa và đầy đủ các thành phần câu

+  Những sự chuyển đổi, sáng tạo vẫn đảm bảo sự trong sáng khi tuân thủ theo những quy tắc chung của tiếng Việt.

– Tiếng Việt không cho phép pha tạp, lai căng, sử dụng tuỳ tiện, không cần thiết những yếu tố của ngôn ngữ khác.

– Tính văn hóa, lịch sự của lời nói

* Thao tác 1 :

Hướng dẫn học sinh tìm hiểu trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

–  Muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta phải có thái độ và tình cảm như thế nào đối với tiếng Việt?

–  Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mỗi người cần có hiểu biết về tiếng Việt hay không? Và là thế nào để có những hiểu biết về tiếng Việt?

Về mặt hành động, để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mọi người cần sử dụng tiếng Việt như thế nào?

Học sinh thảo luận và nói lên ý kiến của mình

 

-Cần có ý thức tôn trọng và yêu quý tiếng Việt, xem đó là ”thứ của cải vô cùng lâu đời và quí báu của dân tộc”

– Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mỗi người cần có những hiểu biết về tiếng Việt

 (Cần có những hiểu biết cần thiết về các chuẩn mực của tiếng Việt: ngữ âm, chữ viết, từ ngữ, ngữ pháp)

– Hiểu biết đó không chỉ qua học tập ở trường, mà còn bằng tự học hỏi.

– Sử dụng tiếng Việt theo chuẩn mực và quy tắc, trong đó có các quy tắc chuyển hoá, biến đổi.

– Không lạm dụng tiếng nước ngoài làm vẩn đục tiếng Việt.

– Tránh những lối nói thô tục, thiếu văn hoá.

II. Trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt:

1. Về thái độ, tình cảm:

 

 

2. Về nhận thức:

 

 

 

 

3. Về hành động:

 

* Thao tác 1 :

Hướng dẫn HS luyện tập.

Thao tác 2: Tổ chức cho HS thảo luận nhóm:

Nhóm 1: Bài tập 1– trang 33

– Yêu cầu HS tìm những từ ngữ tiêu biểu mà tác giả dùng để miêu tả diện mạo hoặc tính cách nhân vật trong Truyện Kiều?

Nhóm 2: Bài tập 2-trang 34

Yêu cầu học sinh điền vào đoạn văn các dấu câu thích hợp để đoạn văn được trong sáng.

Nhóm 3: Bài tập 1. trang 44

– Yêu cầu học sinh phân tích từng câu văn để tìm ra những câu văn“trong sáng”và những câu“không trong sáng”?

 HS: Lần lượt phân tích các câu văn

Nhóm 4: Bài tập 2. trang 45

– Yêu cầu học sinh phân tích để tìm ra những từ nước ngoài nào không nên sử dụng và thay thế bằng từ khác để đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt.

HS thảo luận, đại diện nhóm trả lời, các nhóm khác theo dõi, góp ý.

Nhóm 1

Các từ ngữ Nguyễn Du và Hoài Thanh nói về các nhân vật rất chuẩn xác vì miêu tả đúng diện mạo hoặc lột tả được tính cách nhân vật.

– Kim Trọng:rất mực chung tình

– Thuý Vân:cô em gái ngoan

– Hoạn Thư:người đàn bà bản lĩnh khác thường, biết điều mà cay nghiệt

– Thúc Sinh:sợ vợ

– Từ Hải:chợt hiện ra, chợt biến đi như một vì sao lạ

– Tú Bà: màu da “nhờn nhợt

– Mã Giám Sinh: “mày râu nhẵn nhụi

– Sở Khanh: chải chuốt dịu dàng

– Bạc Bà, Bạc Hạnh:miệng thề “xoen xoét”

Nhóm 2: Bài tập 2-trang 34

Tôi có lấy ví dụ về một dòng sông. Dòng sông vừa trôi chảy, vừa phải tiếp nhận – dọc đường đi của mình – những dòng nước khác . Dòng ngôn ngữ cũng vậy:  một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của dân tộc, nhưng nó không được phép gạt bỏ, từ chối những gì thời đại đem lại.”

(Chế Lan Viên)

Nhóm 3: Bài tập 1. trang 44

– Câu a không trong sáng (có sự lẫn lộn giữa trạng ngữmuốn xóa bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thônvà chủ ngữ ) vì dùng thừa từđòi hỏi.

– Các câub, c, d  viết đúng chuẩn ngữ pháp nên là những câu trong sáng.

 

Nhóm 4:Bài tập 2. trang 45

– Dùng từTình nhânthì thiên về việc nói đến con người hơn là ngày lễ

– Dùng từValentinelà từ vay mượn nên không cần thiết.

à Dùng từ  (ngày)Tình yêulà đủ diễn đạt nội dung và sắc thái tình cảm. Không nhất thiết dùng từ nước ngoài.

 

Thao tác 3:

Hướng dẫn HS tổng kết bài học

* Tổng kết bài học theo những câu hỏi của GV.

The post Giáo án Ngữ văn 12 tuần 3: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt appeared first on Luật Dương Gia.

]]>
Nghị luận giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chọn lọc siêu hayhttps://luatduonggia.vn/nghi-luan-giu-gin-su-trong-sang-cua-tieng-viet-chon-loc-sieu-hay/Mon, 02 Sep 2024 08:41:43 +0000https://luatduonggia.vn/nghi-luan-giu-gin-su-trong-sang-cua-tieng-viet-chon-loc-sieu-hay/Ngôn ngữ chính là tinh hoa văn hóa, là đứa con tinh thần của dân tộc Việt Nam, bởi vậy mỗi chúng ta cần phải luôn ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và đưa tiếng Việt ra thế giới.

The post Nghị luận giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chọn lọc siêu hay appeared first on Luật Dương Gia.

]]>
1. Dàn ý giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt ngắn gọn nhất: 

1.1. Mở bài:

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Trước sự phát triển của xã hội và quá trình hội nhập thế giới, tiếng Việt cũng cần phải đổi mới, đa dạng và phong phú hơn để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Điều quan trọng nhất là giữ được sự trong sáng vốn có của tiếng Việt trong bất kỳ hoàn cảnh xã hội nào.

1.2. Thân bài:

Giải thích khái niệm:

– Trong sáng là gì?

– Sự thuần khiết trong tiếng Việt là gì?

– Có những chuẩn mực và quy tắc chung của tiếng Việt

– Không pha tạp, hòa nhập nhưng không hòa tan

– Sáng tạo phải tuân theo quy luật

– Đảm bảo văn hóa, lịch sự, đạo đức Việt Nam

Làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?

– Tôn trọng và giữ gìn giá trị của tiếng Việt

– Hãy cẩn thận trong việc sử dụng tiếng Việt, đừng trộn lẫn nó

– Thường xuyên rèn luyện sử dụng tiếng Việt

– Sử dụng tiếng Việt chuẩn mực và lịch sự

1.3. Kết bài:

Khẳng định vai trò giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt: Tiếng Việt là quốc ngữ của chúng ta, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là bảo vệ tiếng Việt, bảo vệ ngôn ngữ là bảo vệ tiếng nói. của dân tộc, bảo vệ đất nước.

2. Bài nghị luận giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt hay nhất:

Tiếng Việt là quốc ngữ của dân tộc Việt Nam ta, nguyên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn coi trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Không những thế, tổ tiên còn giáo dục nhân dân làm cho tiếng nói, chữ viết đẹp hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là hiện nay, nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta thấy bên cạnh việc tiếp thu, Việt hóa nhiều cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, chữ viết. Ở nước ngoài, sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực và mất đi sự trong sáng vốn có.

Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng điều đáng quan tâm là sự lai tạp ngày càng tăng của ngôn ngữ và chữ viết nước ngoài. Dường như chúng ta cũng có thể thấy rằng ngày càng có nhiều người, đặc biệt là giới trẻ ngày nay, dường như đã đánh mất sự trong sáng của tiếng Việt. Khi nói và viết tiếng Việt, các bạn thường chèn tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, một cách vô tội vạ. Tất nhiên, dường như ai cũng phải thừa nhận điều đó trước tốc độ phát triển nhanh và rất nhanh của khoa học công nghệ. Hơn nữa, chúng ta cũng cần biết rằng máy tính và công nghệ thông tin ngày nay dường như có quá nhiều thuật ngữ mới chưa có trong tiếng Việt. Chắc hẳn vì điều này mà việc sử dụng chính xác các thuật ngữ tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việt là vô cùng cần thiết. Đó là những từ ngữ công nghệ như Internet, các trang web…, nhưng đáng trách nhất vẫn là việc sử dụng chữ viết nước ngoài một cách lố bịch và thái quá. Khi nói một câu thuần Việt, người ta cũng không quên thêm vào một số từ tiếng Anh để người nghe biết mình là người rất hiểu biết. Chính sự lạm dụng quá mức này sẽ gây ra những điều không phù hợp với người Việt Nam chúng ta.

Để biện minh cho sự thiếu trong sáng của tiếng Việt, chúng ta có thể thấy rằng người nói thường nghĩ rằng đó là một cách để học tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ hội nhập không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại ngày nay, đó là điều không thể phủ nhận. Nhưng thực ra, để có thể muốn thực hành một ngoại ngữ, mỗi chúng ta có thể nói và viết hoàn toàn bằng ngoại ngữ mà chúng ta học trong các lớp học ngoại ngữ, các lớp học đại học dạy bằng tiếng Anh. Một cách học ngoại ngữ hiệu quả khác là tạo cơ hội giao lưu với người nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng tránh sử dụng các ngôn ngữ lai tạp khi nói và viết tiếng Việt sẽ làm cho tiếng Việt mất đi sự liên quan. Không thể phủ nhận rằng tiếng Việt của chúng ta chiếm đa số và vay mượn của tiếng Hán chiếm 80%. Nhưng người dùng không nên lai căng quá mức. Ngày xưa các cụ gọi học trò biết chữ Hán là “lỗ chữ” và có câu rất hay “thà dốt còn hơn mù chữ”.

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về ngôn ngữ của chúng. Nhưng rồi nhận ra điều này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kêu gọi mọi người giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Trên thực tế, chúng ta có thể thấy rằng bản thân người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông” như câu nói đã quá quen thuộc với chúng ta. Nhưng hình như người ta thường khuyên nhau “ra đường cẩn thận” chứ chưa ai nói “cẩn thận tham gia giao thông” bao giờ. Thật vậy, để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo gương Bác Hồ từng nói, bản thân Nhà nước cần có những quy định và kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, Viện Ngôn ngữ học có trách nhiệm đề xuất cũng như xây dựng quy định chuẩn mực về việc hiện nay người dân có thường xuyên sử dụng từ nước ngoài trong văn bản, câu nói hàng ngày hay không. Và đặc biệt ngay cả những văn bản chính thức của Nhà nước dường như cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu này.

Và bản thân các nhà trường cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Chúng ta có thể loại trừ sự trớ trêu của việc sử dụng một ngôn ngữ lai tạp, điều này dường như là một khía cạnh của niềm tự hào và bên cạnh đó là sự tôn trọng ý thức dân tộc của ngôn ngữ, điều này dường như cũng góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 

3. Bài nghị luận giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt ấn tượng nhất:

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là việc làm hết sức quan trọng đối với mỗi người dân nước ta. Khi còn sống, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lần nói về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cần phát huy truyền thống của tiếng Việt để tiếng Việt ngày càng giàu đẹp, hiện đại, và vẫn giữ được nét đẹp truyền thống vốn có mà không bị lai tạp hay pha trộn với các ngôn ngữ khác như tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp…

Tuy nhiên, trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay, khi đất nước ta ngày càng mở rộng quan hệ với nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây, sự lai tạp thì việc sử dụng ngôn ngữ chung của thế giới ngày càng trở nên khó khăn. Giới tính là tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt ngày càng trở nên phổ biến.

Đặc biệt đối với những người trẻ hiện đại, thích cái mới nhưng lại có phong cách Tây hóa, việc sử dụng ngôn ngữ lai giữa tiếng Anh và tiếng Việt trong cuộc sống hiện đại ngày càng trở nên phổ biến.

Điều này làm cho sự trong sáng của tiếng Việt dần bị mai một, không còn giữ được giá trị riêng trong đời sống, sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một sự thật vô cùng phũ phàng rằng với sự phát triển của công nghệ hiện đại, việc sử dụng tiếng Anh là vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì nếu không biết tiếng Anh, chúng ta không thể giao tiếp và hòa nhập với bạn bè năm châu.

Tất cả các máy móc, thiết bị đều có sách hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Anh, không phải máy móc nào cũng được dịch sang tiếng Việt nên nếu không học tiếng Anh sẽ không thể hiểu và áp dụng vào cuộc sống.

Chúng ta sẽ đi sau thời đại, so với sự phát triển chóng mặt của toàn thế giới. Nhưng việc lạm dụng tiếng Anh của giới trẻ ngày nay cũng là một trào lưu vô cùng nực cười và làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.

Dẫu biết rằng có nhiều từ tiếng Anh khi dùng tiếng Anh sẽ ngắn gọn và súc tích hơn, ví dụ dance là khiêu vũ, hay fan là người hâm mộ, rồi country là đất nước…. Khi chúng ta sử dụng tiếng Anh thì ngắn gọn, súc tích hơn nhưng với việc thường xuyên sử dụng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt thì tiếng Việt sẽ mất đi giá trị, sự trong sáng và ý nghĩa của nó trong cuộc sống thực.

Ngoài ra, nhiều bạn trẻ còn sử dụng những từ lóng, tiếng lóng, giọng nói lái, đi chệch khỏi tiếng Việt chuẩn của nước ta, làm mất đi ít nhiều sự trong sáng của tiếng Việt.

Trong xã hội hiện đại, nhiều bạn sẽ thích khám phá ngôn ngữ mới, cách viết mới để thể hiện phong cách trẻ trung của mình. Bạn đã phát minh ra rất nhiều từ mới mà người già không thể hiểu hết. Phải thừa nhận rằng, sự sáng tạo này đã làm cho vốn từ của tiếng Việt phong phú và đa dạng hơn rất nhiều, nhưng nó cũng làm lệch đi khá nhiều so với ngôn ngữ vốn có của chúng ta.

Vì vậy, chúng ta cần sử dụng tiếng Việt cho đúng, tránh dùng từ Hán Việt, Pháp Việt, Anh Việt, trừ trường hợp không có từ thay thế. Có một số từ dùng thời Pháp thuộc mà hiện nay tiếng Việt ta chưa có nên tạm dùng làm từ chỉ các bộ phận cơ khí trong xe đạp như bi-a, xe đạp, vì chúng ta không có từ nào thay thế cho những từ này.

Có nhiều từ Hán Việt lâu ngày trở nên quen thuộc khiến chúng ta quên mất rằng tiếng Việt chuẩn có nó. Hoặc do khi dùng từ Hán Việt ta cảm thấy nghĩa của từ trở nên trang trọng hơn nên người dùng vẫn dùng Hán Việt. 

Mặc dù việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là vô cùng cần thiết, nhưng không phải từ nào cũng có thể sử dụng chính xác 100% trong tiếng Việt bởi có những từ tiếng Việt khiến chúng ta xúc động khi đọc lên, cảm thấy bất lịch sự trong những tình huống trang nghiêm, lịch sự. Vì vậy, lựa chọn từ Hán Việt, hay Hán Nôm vẫn là một việc làm không thể thay thế.

Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là việc của tất cả mọi người, từ trẻ đến già, không phân biệt ai, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm với tiếng mẹ đẻ của Tổ quốc.

Chúng ta phải giữ gìn ngôn ngữ của cha ông ta, bảo vệ và phát triển nó như một truyền thống, một tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc, không để ngôn ngữ của chúng ta bị mai một theo thời gian.

Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta cần có những quy định rõ ràng và chặt chẽ về bảo vệ chữ quốc ngữ. Cần xây dựng một hệ thống ngôn ngữ chuẩn để tránh ngôn ngữ sai lệch của thế hệ trẻ. Cần loại bỏ sự vô lý trong cách dùng từ lai căng, lệch lạc của giới trẻ hiện nay.

The post Nghị luận giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chọn lọc siêu hay appeared first on Luật Dương Gia.

]]>