Số nhân ngoại thương là gì? Công thức và ý nghĩa của số nhân ngoại thương

Số nhân ngoại thương hay hệ số ngoại thương, còn được gọi là số nhân xuất khẩu, hoạt động giống như hệ số đầu tư của Keynes.Công thức và ý nghĩa của số nhân ngoại thương?

"Số nhân ngoại thương" là một khái niệm được dùng để chỉ là số nhân xuất khẩu, hoạt động giống như hệ số đầu tư của Keynes. Vậy số nhân ngoại thương là gì và để hiểu rõ hơn về vấn đề này cũng như công thức tính và ý nghĩa của số nhân ngoại thương được thể hiện như thế nào?

1. Số nhân ngoại thương là gì? 

- Số nhân ngoại thương hay hệ số ngoại thương, còn được gọi là số nhân xuất khẩu, hoạt động giống như hệ số đầu tư của Keynes. Nó có thể được định nghĩa là số tiền mà thu nhập quốc dân của một quốc gia sẽ được nâng lên nhờ sự gia tăng một đơn vị đầu tư trong nước vào xuất khẩu.

- Khi xuất khẩu tăng, thu nhập của tất cả những người có liên quan đến các ngành xuất khẩu cũng tăng theo. Đến lượt mình, những điều này lại tạo ra nhu cầu về hàng hóa. Nhưng điều này phụ thuộc vào xu hướng tiết kiệm cận biên (MPS) và xu hướng nhập khẩu cận biên (MPM). Hai xu hướng cận biên này càng nhỏ thì giá trị của số nhân càng lớn và ngược lại.

- Quá trình số nhân ngoại thương có thể được giải thích như thế này. Giả sử xuất khẩu của quốc gia tăng lên. Đầu tiên, các nhà xuất khẩu sẽ bán sản phẩm của họ ra nước ngoài và nhận được nhiều thu nhập hơn. Để đáp ứng nhu cầu nước ngoài, họ sẽ tham gia vào nhiều yếu tố sản xuất hơn để sản xuất nhiều hơn.

- Điều này sẽ nâng cao thu nhập của chủ sở hữu các yếu tố sản xuất. Quá trình này sẽ tiếp tục và thu nhập quốc dân tăng theo giá trị của số nhân. Giá trị của hệ số nhân phụ thuộc vào giá trị của MPS và MPM, có mối quan hệ nghịch đảo giữa hai xu hướng và hệ số nhân xuất khẩu.

2. Công thức và ý nghĩa của số nhân ngoại thương:

* Công thức:

- Số nhân ngoại thương có thể được tính đại số như sau: Bản sắc thu nhập quốc dân trong nền kinh tế mở là: Y = C + I + X - M

- Trong đó Y là thu nhập quốc dân, C là tiêu dùng quốc gia, I là tổng đầu tư, X là xuất khẩu và M là nhập khẩu.

- Mối quan hệ trên có thể được giải quyết như sau:

YC = 1 + XM  hoặc S = I + XM (S = YC) , S + M = I + X

Do đó, ở mức thu nhập cân bằng, tổng tiết kiệm và nhập khẩu (S + M) phải bằng tổng đầu tư và xuất khẩu (1 + X).

Trong nền kinh tế mở, thành phần đầu tư (I) được chia thành đầu tư trong nước (I d ) và đầu tư nước ngoài (I f )

Tôi = S

I d + I f = S… (1)

Đầu tư nước ngoài (I f ) là chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.

Tôi f = XM…. (2)

Thay (2) thành (1), ta có

l d + XM - S

hoặc tôi d + X = S + M

Đó là điều kiện cân bằng của thu nhập quốc dân trong nền kinh tế mở. Hệ số nhân ngoại thương (K f ) bằng

K f = ∆Y / ∆X

Và ∆X = ∆S + ∆M

Nó cho thấy sự gia tăng xuất khẩu của Rs. 1000 crores đã nâng cao thu nhập quốc dân thông qua hệ số nhân ngoại thương Rs. 2000 crores, với các giá trị của MPS và MPM.

- Hệ số ngoại thương dựa trên các giả định sau:

+ Có toàn dụng lao động trong nền kinh tế trong nước.

+ Có sự liên kết trực tiếp giữa trong nước và nước ngoài trong việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.

+ Đất nước nhỏ, không có tác động ngoại lai.

+ Nó nằm trên một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định.

+  Hệ số dựa trên quy trình tức thời mà không bị trễ thời gian.

+  Không có máy gia tốc.

+ Không có hàng rào thuế quan và kiểm soát hối đoái.

+ Đầu tư trong nước (I d ) không đổi.

+ Chi tiêu của chính phủ là không đổi.

+  Phân tích chỉ có thể áp dụng cho hai quốc gia.

- Với những giả định này, mức cân bằng trong nền kinh tế được thể hiện trong Hình 1, trong đó S (Y) là hàm tiết kiệm và (S + M) Y là hàm tiết kiệm cộng với nhập khẩu. l d đại diện cho đầu tư trong nước và l d + X, đầu tư trong nước cộng với xuất khẩu. (S + M) Các hàm Y và I d+ X xác định mức cân bằng của thu nhập quốc dân OY tại điểm E, nơi tiết kiệm bằng đầu tư trong nước và xuất nhập khẩu bằng nhau.

- Nếu có sự thay đổi trong hàm I d + X do tăng xuất khẩu, thu nhập quốc dân sẽ tăng từ OY lên OY 1 như trong Hình 2. Sự gia tăng thu nhập này là do hiệu ứng số nhân, tức là ∆Y = K f ∆X. Xuất khẩu sẽ vượt quá nhập khẩu theo sd, số tiền tiết kiệm được sẽ vượt quá đầu tư trong nước. Mức cân bằng mới của thu nhập sẽ là 1 OY . Đó là một trường hợp đầu tư nước ngoài tích cực.

- Nếu xuất khẩu giảm, hàm xuất khẩu sẽ dịch chuyển xuống I d + X 1 như trong Hình 3. Trong trường hợp này, nhập khẩu sẽ vượt quá xuất khẩu và đầu tư trong nước sẽ vượt quá tiết kiệm ds. Mức thu nhập quốc dân giảm từ OY xuống còn 1 . Đây là hoạt động ngược lại của hệ số nhân ngoại thương.

* Ý nghĩa của công thức tính:

- Tác động nước ngoài hoặc hiệu ứng rửa ngược: Phân tích ở trên về số nhân ngoại thương đơn giản đã được nghiên cứu trong trường hợp của một quốc gia nhỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, các quốc gia cũng liên kết với nhau một cách gián tiếp. Xuất khẩu hoặc nhập khẩu của một quốc gia ảnh hưởng đến thu nhập quốc dân của quốc gia kia, đến lượt nó, ảnh hưởng đến ngoại thương và thu nhập quốc dân của quốc gia đầu tiên.

- Điều này được gọi là Tác động nước ngoài hoặc Hiệu ứng rửa ngược hoặc Phản hồi. Quốc gia càng nhỏ trong mối quan hệ với các đối tác thương mại khác thì tác động của nước ngoài là không đáng kể. Nhưng tác động của nước ngoài sẽ cao trong trường hợp của một quốc gia rộng lớn bởi vì sự thay đổi trong thu nhập quốc dân của một quốc gia đó sẽ gây ra những tác động từ nước ngoài đáng kể hoặc những hiệu ứng rửa ngược.

- Giả sử hai nước lớn A và B mà hàng nhập khẩu của A thì hàng xuất khẩu của nước B và ngược lại. Đầu tư trong nước của A tăng lên sẽ khiến thu nhập của A tăng theo cấp số nhân. Điều này sẽ làm tăng nhập khẩu của nó. Sự gia tăng nhập khẩu của A sẽ làm tăng xuất khẩu của B, điều này sẽ làm tăng thu nhập ở B thông qua số nhân ngoại thương của B.

- Bây giờ sự gia tăng thu nhập của B sẽ kéo theo sự gia tăng nhập khẩu từ nước A, điều này sẽ làm tăng thu nhập của nước A lần thứ hai, v.v. Điều này được giải thích trong Bảng 1. Khi đầu tư trong nước tự chủ (I d ) tăng lên ở quốc gia A, thu nhập quốc dân của quốc gia đó tăng (+ Y).

- Nó khiến quốc gia A nhập khẩu nhiều hơn từ quốc gia B. Điều này làm tăng nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của quốc gia B (X +). Do đó, thu nhập quốc dân ở nước B tăng lên (Y +). Hiện quốc gia này nhập khẩu nhiều hơn (M +) từ quốc gia A.

- Khi cầu đối với hàng xuất khẩu của quốc gia A tăng (+ X), thu nhập quốc dân (+ Y) của quốc gia đó tăng hơn nữa và quốc gia này nhập khẩu nhiều hơn (+ M) từ quốc gia B. Quá trình này sẽ tiếp tục trong các vòng nhỏ hơn. Đây là những tác động từ nước ngoài hoặc những tác động ngược đối với quốc gia A sẽ làm giảm bớt tác động của việc gia tăng đầu tư trong nước tự chủ ban đầu (I d ) ở quốc gia A.

- Các giai đoạn của tác động ngoại lai trong bảng trên được giải thích trong Hình 4 Bảng I, II và III. Trong giai đoạn I, đầu tư trong nước ở quốc gia A tăng dạng I d lên I d1 trong Bảng I. Điều này dẫn đến sự dịch chuyển lên trên của đường I d + X thành I d1 + X. Kết quả là điểm cân bằng mới ở E 1 cho thấy sự gia tăng thu nhập quốc dân từ năm OY lên 1 năm . Khi thu nhập quốc dân tăng, nhu cầu nhập khẩu từ nước B cũng tăng lên.

- Điều này đồng nghĩa với việc tăng xuất khẩu của nước B. Điều này được thể hiện trong Bảng II khi đường cong l d + X của nước B dịch chuyển lên trên khi I d + X 1 . Do đó, thu nhập quốc dân ở quốc gia B tăng từ OY 0 đến OY 'ở mức cân bằng cao hơn E'.

- Khi thu nhập của quốc gia B tăng lên, nhu cầu nhập khẩu của quốc gia A cũng tăng lên. Điều này lại dẫn đến tác động ngược dưới dạng tăng nhu cầu hàng xuất khẩu của nước A. Điều này được thể hiện trong Bảng III khi đường cong l d1 + X (của Bảng I) dịch chuyển tiếp lên trên I d1 + X 1 và do đó thu nhập quốc dân tăng hơn nữa từ năm 1 đến năm 2 .

- Điều này cho thấy tác động của nước ngoài ở một quốc gia ảnh hưởng như thế nào đến thu nhập quốc dân của quốc gia đó và của quốc gia khác, đến lượt nó, lại ảnh hưởng đến thu nhập quốc dân của chính quốc gia đó thông qua các tác động ngược với lực lớn hơn.

- Những tác động của tác động nước ngoài:

+  Các tác động từ nước ngoài gợi ý một cơ chế dẫn đến sự xáo trộn thu nhập giữa các quốc gia thương mại. Nếu một quốc gia nhỏ, nó sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi thu nhập của các quốc gia khác, điều này sẽ làm thay đổi nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của quốc gia đó. Nhưng nó sẽ không thể truyền những xáo trộn thu nhập của chính nó cho người sau.

+ Nếu một quốc gia lớn, quốc gia đó có thể truyền những xáo trộn về thu nhập của chính mình sang các quốc gia khác và do đó sẽ bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn về thu nhập ở các quốc gia đó. Nó ngụ ý rằng sự bùng nổ hoặc sụt giảm ở một quốc gia có tác động trở lại thu nhập của các quốc gia khác. Do đó, những thay đổi trong chu kỳ kinh doanh có khả năng lây lan quốc tế, như đã xảy ra trong những năm 1930 và 2008.

+  Các tác động trở lại cũng cho thấy rằng vì các tác động rửa ngược cuối cùng cũng giảm dần, các thay đổi thu nhập tự động không thể loại bỏ hoàn toàn thâm hụt hoặc thặng dư BOP của tài khoản vãng lai do sự xáo trộn tự động tạo ra.

+  Hàm ý chính sách của các tác động ngược cho thấy rằng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu nâng cao thu nhập quốc dân ở các đối tác thương mại ở mức thấp hơn so với việc tăng đầu tư trong nước. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nâng cao thu nhập quốc dân thông qua hệ số nhân ngoại thương đơn giản, trong khi chính sách tăng đầu tư trong nước nâng cao thu nhập quốc dân nhiều lần theo cấp số nhân thông qua các tác động trở lại.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )