Quyền môi trường là gì? Quyền được sống trong môi trường trong lành?

Môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và hạnh phúc của con người. Như vậy, bảo vệ môi trường đồng nghĩa với việc bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Cùng bài viết tìm hiểu rõ hơn về quyền môi trường và quyền được sống trong môi trường trong lành.

1. Quyền môi trường là gì?

Mối liên hệ giữa môi trường quyền con người không phải vấn đề mới cộng đồng quốc tế đã công nhận việc suy thoái môi trường dẫn tới đói nghèo, làm sâu thêm sự bất bình đẳng trong hội. Mối liên hệ này lần đầu được nhắc tới tại Hội nghị của liên Hợp Quốc về Môi trường con người năm 1972 thông qua Tuyên bố Stockholm. Bằng tuyên bố rằng: ... các khía cạnh môi trường của con người, cả tự nhiên nhân tạo, đều cần thiết với sự khỏe của con người việc thụ hưởng các quyền con người bản ngay cả đối với quyền được sống

Hội nghị đã công nhận sự liên kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, thực trạng môi trường và sức khỏe của toàn nhân loại. Do đó, cần xem xét tới các tác hại sự phát triển thể đem lại cho môi trường, thứ sẽ ảnh hưởng gián tiếp lên cuộc sống mức độ hạnh phúc của con người. Hội nghị cũng công nhận việc bảo vệ cải thiện môi trường cho các thế hệ hiện tại tương lai mục tiêu cấp thiết của loài người để đạt được sự hài hòa giữa các mục tiêu bản hòa bình phát triển kinh tế, hội

Tuyên bố Stockholm năm 1972 công nhận mối liên hệ giữa quyền con người của từng nhân chất lượng môi trường. Nguyên tắc 1 của Tuyên bố nêu rằng: Con người quyền bản về tự do, bình đẳng các điều kiện sống đầy đủ, trong một môi trường phẩm chất cho phép một cuộc sống phẩm giá hạnh phúc” 

Nguyên tắc này không chỉ tuyên bố quyền cơ bản của con người đối với một môi trường trong lành, nhưng ngụ ý rằng yếu tố môi trường cần thiết cho sự thụ hưởng các quyền tự do các quyền con người khác đã được công nhận. Theo đó, suy thoái môi trường thể cản trở các quyền bản của con người mức độ các quyền đó được coi bị vi phạm bị vi phạm 9, tr. 176. Mặc không phải một văn bản mang tính pháp lý ràng buộc, Tuyên bố Stockholm đã tạo ra nhận thức quốc tế về vấn đề suy thoái môi trường. Ngày càng nhiều sự công nhận về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường toàn cầu, cũng như nhu cầu đặt thêm các nguyên tắc quy tắc mới về một số vấn đề môi trường cụ thể. Dần dần, các khái niệm nguyên tắc mới đã xuất hiện để làm thêm các tác động môi trường tới từ hoạt động của nhà nước. Quyền của con người đối với một môi trường trong lành, do đó, không thể thiếu để con người thể sống một cuộc sống phẩm giá.

Nhìn chung, các nhà lập pháp cộng đồng quốc tế xem quyền được sống trong môi trường trong lành, hay quyền môi trường (QMT), một quyền con người bản thuộc nhóm thế hệ quyền mới; vừa quyền nhân vừa quyền của tập thể (collective right) (Boyle, 2010). QMT bao gồm quyền được sống trong môi trường trong lành, không bị ô nhiễm, quyền được tiếp cận với thông tin về môi trường quyền được tiêu chuẩn sức khỏe mức cao nhất thể về môi trường sống, quyền được sử dụng các biện pháp để khắc phục, bồi thường trong những trường hợp quyền này bị vi phạm

QMT bao gồm các quyền thực định (substantive rights) và quyền thủ tục (procedural rights) (Shelton, 2000). Theo nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế, bất cứ quyền nào cũng bao gồm chủ thể nắm giữ, sở hữu quyền ấy đồng thời chỉ ra trách nhiệm pháp của chủ thể nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ thực thi quyền ấy

Chủ thể quyền của QMT các nhân, nhóm hội, cộng đồng các quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Chủ thể nghĩa vụ thực thi QMT, hay chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm QMT nhà nước. Nhà nước trách nhiệm nghĩa vụ chính trong tôn trọng, bảo vệ thực thi QMT; Trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước với cách quốc gia thành viên của các Công ước quốc tế bản về quyền con người, bao gồm Công ước quốc tế về các quyền dân sựchính trị Công ước quốc tế về quyền kinh tếhội văn hóa năm 1966..

Trong trường hợp xảy ra các sai phạm, vi phạm hay xâm phạm quyền về môi trường của người dân, các cơ quan nhà nước (đặc biệt quan quản nhà nước trách nhiệm liên đới) cần phải thực thi tất cả các biện pháp, bao gồm lập pháp, hành pháp, pháp các biện pháp khác (như giáo dục, phổ biến, tuyên truyền...) để bảo đảm quyền về môi trường cho tất cả mọi nhân nhóm hội

2. Quyền được sống trong môi trường trong lành của các thế hệ tương lai:

Thế hệ tương lai, theo nghĩa rộng nhất, bao gồm trẻ em cả những người chưa được sinh ra. Hiện nay, pháp luật nói chung chưa thừa nhận hoàn toàn các quyền con người quyền công dân của những người chưa được sinh ra như đối với những người đã được sinh ra

Theo quan điểm của tác giả, quyền được sống trong môi trường trong lành của các thế hệ tương lai quyền của những trẻ em hiện nay, người sẽ tiếp tục sống trong môi trường tương lai định, cả những trẻ em chưa được sinh ra thời điểm hiện tại, người chưa được hình thành chưa được công nhận cách thể nhân cũng như pháp nhân. Quyền này nhằm đảm bảo tất cả những thế hệ tương lai đang sống sẽ sống một môi trường sống trong lành ít nhất bằng hoặc phải tốt hơn các thế hệ hiện tại chứ không phải một môi trường ngày càng tồi tệ đi so với hiện giờ

Quyền được sống trong môi trường trong lành của các thế hệ tương lai thể được chia thành hai loại chính: quyền môi trường phát triển bền vững) quyền đạo đức sinh học (bảo vệ tình trạng con người). Về bản chất, ý tưởng về thế hệ tương lai được liên kết với ý tưởng về tính bền vững. ngụ ý mở rộng khung thời gian của luật để bao gồm việc bảo vệ lâu dài các quần thể và loài

Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn mới khái niệm về các thế hệ tương lai đã tồn tại về bản chất từ năm 1945 trong các khái niệm về tội ác chống lại loài người di sản chung của nhân loại. Một trong những bản Hiến pháp đầu tiên trên thế giới để cập trực tiếp tới quyền của thế hệ tương lai Hiến pháp Nhật Bản năm 1947. Điều 97 của bản Hiến pháp này đã ghi nhận các quyền con người bản vĩnh cửu, bất khả xâm phạm, các quyền đó không chỉ thuộc về thế hệ này, còn quyền của các công dân trong tương lai

Một mối liên hệ ràng hơn giữa môi trường thế hệ tương lai đã được tạo ra vào năm 1972, bằng với việc lồng ghép các quyền con người môi trường vào Tuyên bố Stockholm. Khái niệm về các thế hệ tương lai sau đó đã xuất hiện một cách ràng hơn với sự thể hiện chính thức của mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt kể từ Hội nghị Rio năm 1992. Hai sự kiện này giúp chúng ta thể bắt đầu suy ngẫm về phát triển bền vững không làm tổn hại đến năng lực của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của chính họ. Các quá trình biến đổi khác nhau sau đó đã được thiết lập. Với nguyên tắc phòng ngừa rủi ro mới, đã phát triển từ luật hình sự, thi hành án, thành lập luật dự báo, nhằm mục đích ngăn ngừa các thảm họa về sức khỏe môi trường

Cùng với đà thay đổi này, ít nhất đã hai quốc gia sửa đổi Hiến pháp của mình, nhằm khẳng định quyền của thế hệ tương lai được sống trong môi trường trong sạch Na Uy Bolivia. Bản Hiến pháp Na Uy sửa đổi vào năm 1992 ghi nhận trong điều 110 rằng Mọi người quyền được hưởng một môi trường trong lành... Các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ được quản trên sự cân nhắc toàn diện trong dài hạn nhằm bảo vệ quyền này cho cả các thế hệ tương lai. Các bản sửa đổi sau này của Na Uy, sự thay đổi trong việc sắp xếp các điều khoản, đều giữ nguyên nội hàm của quyền của thế hệ tương lai. Bản Hiến pháp sửa đổi vào năm 2002 của Bolivia thì ghi nhận tại điều 7 rằng mọi công dân đều quyền cơ bản về hưởng thụ một môi trường trong lành với sự cân bằng sinh thái phù hợp với sức khỏe, nhưng đồng thời phải cân nhắc tới cả các quyền lợi của thế hệ tương lai. Tuy nhiên, hai bản Hiến pháp trên đây vẫn hai dụ hiếm hoi về việc công nhận ràng quyền về môi trường của thế hệ tương lai

Từ năm 2000 đến năm 2015, quyền môi trường lành mạnh bảo vệ con người trong bối cảnh tiến bộ khoa học, cho đến nay vẫn chưa được công nhận hoàn toàn, nhưng đã được thể chế hóa bằng nhiều công ước quốc tế khác nhau. Mặc các nguyên tắc pháp đã được củng cố, chúng thường vẫn nằm trong khuôn khổ luật mềm: phần lớn các văn bản lập pháp xác nhận các thỏa thuận về nguyên tắc với các khuyến nghị không thiết lập các nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp

Kể từ năm 2015 đến 2020, chúng ta đã chứng kiến một làn sóng phát triển mới về quyền của các thế hệ tương lai hình thành một nền tảng, nhiều vụ việc hiện đang được đưa ra tòa. Trên thế giới, hàng nghìn phiên tòa liên quan đến khí hậu đã được đưa ra để bảo vệ môi trường trong tương lai

Mặc dù tầm quan trọng của môi trường bền vững ngày càng được khẳng định, nhiều tranh luận liên quan đến tính hiệu quả của luật pháp quốc tế trong việc đảm bảo tính bền vững của môi trường, đặc biệt trong mối liên hệ với thế hệ tương lai đã nổ ra. Bởi , việc định nghĩa quyền của một người chưa được sinh ra thách thức lớn trong giới luật học. Khó khăn này đã được thừa nhận bởi giám sát viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về các nghĩa vụ nhân quyền liên quan tới quyền được hưởng thụ môi trường an toàn, trong lành bền vững trong Báo cáo năm 2018 6 ,tr. 1718. Các chính sách quốc tế về môi trường đặt mối quan tâm tới quyền của thế hệ tương lai dưới góc nhìn về tác động dài hạn của hành động hiện tại. Trong khi đó, luật nhân quyền quốc tế đặt mối quan tâm chủ yếu lên quyền con người của từng nhân. Với cách tiếp cận khác nhau như vậy, luật nhân quyền quốc tế không đưa ra định nghĩa cụ thể hay nghĩa vụ ràng nào cho các quốc gia về quyền của thế hệ tương lai. Để giải quyết thế lưỡng nan này, luật nhân quyền quốc tế đã lựa chọn tiếp cận quyền của thế hệ tương lai dưới góc độ quyền của những người đang sống hiện tại, nhưng cũng sẽ sống trong tương lai đó quyền con người về môi trường nói chung, quyền được sống trong môi trường trong lành của trẻ em nói riêng

Cách tiếp cận của luật nhân quyền quốc tế về quyền của thế hệ tương lai thông qua quyền trẻ em hợp khi nhìn vào ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới trẻ em. Số liệu thống từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy đã 1,7 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong trong năm 2012 sống trong môi trường không lành mạnh.  Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã ghi lại hơn một thập kỷ qua những lần các chính phủ thất bại trong việc bảo vệ trẻ em khỏi tác hại của môi trường

3. Một số ví dụ điển hình về tác hại của môi trường:

a. Tiếp xúc với các chất độc hại 

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã ghi lại việc trẻ em tiếp xúc với các chất độc hại trong nhiều bối cảnh trên video trong các báo cáo chi tiết.  Trên khắp thế giới, trẻ em tiếp xúc với các chất độc hại khi chơi trên mặt đất, tắm sông, đi học, ăn uống hoặc làm việc. 0 Nhiều chất độc hại hậu quả đặc biệt hại cho trẻ em, những người thể đang phát triển hấp thụ chúng dễ dàng hơn so với người lớn đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi một số chất độc, trong một số trường hợp, dẫn đến tổn thương lâu dài không thể phục hồi, tàn tật hoặc thậm chí tử vong.

b. Sự tiếp xúc của trẻ em do hoạt động kinh doanh 

Hoạt động kinh doanh nguồn gây ra thiệt hại môi trường đáng kể gây hại cho trẻ em thông qua ô nhiễm không khí, nước uống kém chất lượng các con đường phơi nhiễm khác. Các chính phủ thường không quản các công ty một cách đầy đủ. dụ, trẻ em sống gần hoặc làm việc trong xưởng thuộc da Bangladesh đã tiếp xúc với các hóa chất chảy từ sàn xưởng thuộc da vào các rãnh hở trên các đường phố gần đó. Họ đã cho thấy các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm sốt, tiêu chảy, các vấn đề về hấp các bệnh về da, dạ dày mắt. Các luyện kim hoặc nhà máy sản xuất pin đã gây ra tình trạng nhiễm độc chì trẻ em Trung Quốc Kenya, các cuộc phản đối của các bậc cha mẹ đã vấp phải sự đàn áp của chính phủ. Trong nông nghiệp, lao động trẻ em đã tiếp xúc với phân bón thuốc trừ sâu Indonesia, Hoa Kỳ Israel/Palestine. Trẻ em làm nghề trồng trọt thuốc cũng bị các triệu chứng tương ứng với ngộ độc nicotin

Sức khỏe của trẻ em cũng đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng do tiếp xúc với hóa chất từ các hoạt động khai thác mỏ quy lớn nhỏ. Trong một trong những thảm họa sức khỏe môi trường tồi tệ nhất trong những năm gần đây, hơn 400 trẻ em đã chết Nigeria do tình tiếp xúc với bụi nhiễm chì sinh ra trong quá trình khai thác vàng thủ công quy nhỏ. Trẻ em từ các nhóm dân tộc thiểu số sống trong các trại dành cho người di nội bộ Kosovo đã bị nhiễm độc chì do ô nhiễm từ một mỏ công nghiệp gần đó. Tại các khu vực khai thác vàng quy nhỏ Mali, Ghana, Tanzania, Philippines những nơi khác, trẻ em đã tiếp xúc với thủy ngân độc hại được sử dụng để chế biến vàng, trong một số trường hợp các triệu chứng giống với ngộ độc thủy ngân.

c. Các chất độc hại trong hệ thống cấp nước 

Các chính phủ đôi khi đã thất bại trong việc bảo vệ trẻ em khỏi các hóa chất độc hại trong lòng đất, nước ngầm hoặc hệ thống cấp nước. dụ, Bangladesh, hàng triệu trẻ em đã tiếp xúc với ô nhiễm asen qua nước giếng, được coi một nguồn được cải thiện. Tại Canada, các cộng đồng bản địa đã tiếp xúc với nước chứa uranium, E.coli tự nhiên hoặc sự hiện diện của coliform. Tại Harare, Zimbabwe, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát hiện ra rằng nước thải thô thỉnh thoảng chảy ra từ các vòi của thành phố, khiến trẻ em mắc các bệnh tiêu chảy nguy hiểm do nước.

d. Khí hậu thay đổi 

Biến đổi khí hậu tác động đến khả năng tiếp cận nước, thực phẩm chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Các chính phủ cần giải quyết các hậu quả nhân quyền của biến đổi khí hậu đối với trẻ em. Trẻ em từ các cộng đồng bản địa thường đặc biệt dễ bị tổn thương văn hóa sinh kế của họ gắn liền với đất đai của họ, các nhóm yếu thế này thường thiếu các nguồn lực sự hỗ trợ của chính phủ để ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu

Tại khu vực Turkana của Kenya, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nhận thấy rằng biến đổi khí hậu cùng với các thách thức phát triển kinh tế, chính trị môi trường khác đã hạn chế khả năng tiếp cận thực phẩm nước sạch của các cộng đồng bản địa địa phương. Do đó, nhiều trẻ em đã mắc bệnh gia đình không thể cung cấp đủ thức ăn nước sạch cho các em. Các em gái thường đi bộ quãng đường cực dài để đào nước các lòng sông khô cạn, khiến các em gặp nguy hiểm dọc tuyến đường khiến các em ít thời gian đến trường hoặc nghỉ ngơi. Các nghiên cứu khoa học cho thấy hạn hán tái diễn mất an ninh lương thực cũng thể gây ra những ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe. dụ, biến đổi khí hậu đã làm thay đổi hành vi của muỗi bọ ve truyền bệnh như sốt rét

Biến đổi khí hậu cũng đã những tác động khác ảnh hưởng đến khả năng của các chính phủ trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Bangladesh, các gia đình đã dàn xếp các cuộc hôn nhân trẻ em cho con gái của họ dưới 18 tuổi hoàn cảnh nghèo khó cùng với thiên tai biến đổi khí hậu. Do thiếu mạng lưới an sinh của chính phủ, một số gia đình đã vội vàng cho những gái này kết hôn sớm

Từ những bằng chứng trên, thể thấy rằng trẻ em đối tượng chịu nhiều hệ quả tiêu cực bởi biến đổi khí hậu. ràng, biến đổi khí hậu suy thoái môi trường đem tới những nguy trong dài hạn, gây ảnh hưởng tới cuộc sống của trẻ em trong nhiều năm sau đó. Tình trạng này thể trầm trọng hơn nếu trẻ em không được hưởng thụ đầy đủ các quyền cơ bản khác như quyền tiếp cận thông tin hay quyền tham gia vào các vấn đề liên quan trực tiếp tới trẻ em. Do đó, để bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của thế hệ tương lai, việc bảo vệ quyền trẻ em các quyền môi trường cấp thiết

Mặt khác, các luật hiện hành về nhân quyền môi trường vẫn tập trung vào các vi phạm trong quá khứ đối với các luật đó yêu cầu vi phạm đó phải xảy ra trước khi bất kỳ biện pháp khắc phục nào. Việc các chính phủ tập đoàn thiếu hành động trong thời điểm hiện tại thể ít tác động đến các thế hệ hiện tại, nhưng lại khả năng gây ra tác động thảm khốc đến cuộc sống của các thế hệ mai sau, tác động nhân loại sẽ phải chịu trách nhiệm cuối cùng. Do đó, tầm quan trọng của quyền môi trường cho thế hệ tương lai thúc đẩy cộng đồng quốc tế thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong hiện tại, nhằm mang lại quyền một môi trường trong lành cho tương lai. Quyền một môi trường trong lành đã được lựa chọn cụ thể các thế hệ tương lai một khái niệm của luật pháp quốc tế liên quan đến tính bền vững của môi trường.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )