Khái quát chung về bảo lãnh? Quy định trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ?
Bảo lãnh là một chế định khá quen thuộc của pháp luật dân sự Việt Nam. Bảo lãnh là một trong số những biện pháp bảo đảm được sử dụng khá phổ biến được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích dự phòng rủi ro có thể xảy ra cho bên có quyền. Các biện pháp bảo đảm sẽ do các bên chủ thể tham gia giao dịch tự thỏa thuận với nhau để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách bên có nghĩa vụ cho phép bên có quyền được xử lý đối với những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ để nhằm khấu trừ giá trị nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm theo quy định của pháp luật. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu về bảo lãnh và các quy định về trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Khái quát chung về bảo lãnh:
1.1. Bảo lãnh là gì?
Theo Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bảo lãnh có nội dung cụ thể như sau:
– Bảo lãnh là việc mà các chủ thể là người thứ ba (bên bảo lãnh) thực hiện cam kết với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh) sẽ thay bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) thực hiện nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
– Các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Hiểu một cách đơn giản nhất thì bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ khi đã đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền.
1.2. Chủ thể của bảo lãnh:
Đối với biện pháp bảo đảm bảo lãnh thì sẽ xuất hiện thêm một chủ thể là thứ ba ngoài bên cạnh các chủ thể là người có quyền và bên có nghĩa vụ, ngươid thứ ba được gọi chung là bên bảo lãnh. Trong quan hệ bảo lãnh tính chất bảo đảm được thể hiện thông qua sự cam kết thực hiện nghĩa vụ thay của người thứ ba đối với bên có quyền. Chính bởi vì thế mà biện pháp bảo lãnh làm xuất hiện các mối quan hệ sau đây:
– Các mối quan hệ được hình thành:
+ Mối quan hệ giữa bên có quyền với bên có nghĩa vụ là quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp bảo lãnh.
+ Mối quan hệ giữa bên có quyền với bên bảo lãnh là quan hệ bảo lãnh.
+ Mối quan hệ giữa bên có nghĩa vụ với bên bảo lãnh chỉ phát sinh khi bên bảo lãnh đã thay bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của bê có nghĩa vụ trước bên có quyền ( nghĩa vụ hoàn lại).
– Về chủ thể:
+ Các chủ thể của quan hệ bảo lãnh là bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh.
+ Các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là bên có quyền và bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh).
+ Các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ hoàn lại là bên có quyền và bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh).
– Về sự liên hệ giữa các quan hệ:
+ Quan hệ giữa bên có quyền với bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) là quan hệ có nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng bảo lãnh.
+ Mối quan hệ giữa bên có quyền với bên bảo lãnh là quan hệ bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh).
+ Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) là quan hệ mà trong đó bên có nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên bảo lãnh các lợi ích mà bên bảo lãnh đã thay bên có nghĩa vụ thực hiện cho bên có quyền.
Như vậy, ta nhận thấy khi một biện pháp bảo lãnh được đặt ra thì ngoài các bên chủ thể trong quan hệ bảo lãnh là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, còn có một chủ thể liên quan là bên có nghĩa vụ hay còn gọi là bên được bảo lãnh.
Cần lưu ý rằng, bên được bảo lãnh luôn là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh đó. Các chủ thể có thể biết hoặc không biết về việc xác lập quan hệ bảo lãnh nhằm mục đích để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng bên được bảo lanh và bên bảo lãnh đều phải hoàn trả cho bên bảo lãnh các lợi ích mà bên đó đã thay mình thực hiện.
1.3. Đối tượng và phạm vi bảo lãnh:
Đối tượng của bảo lãnh:
Từ những phân tích cụ thể được nêu trên, ta nhận thấy, đối tượng của bảo lãnh là các cam kết của người bảo lãnh với người nhận bảo lãnh. Trên thực tế, để thực hiện được cam kết đó thì người bảo lãnh cần phải có tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích của bên nhận bảo lãnh trong trường hợp khi các chủ thể là người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Nhìn chung, mục đích các bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ hướng tới là lợi ích vật chất. Cũng chính do vậy mà các chủ thể là người bảo lãnh phải bằng một tài sản hoặc bằng việc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh mới có thể đảm bảo được quyền lợi cho người nhận bảo lãnh. Các chủ thể là người bảo lãnh phải là người có khả năng thực hiện công việc bảo lãnh đó theo đúng thoả thuận.
Các chủ thể là người bảo lãnh phải lấy tài sản thuộc sở hữu của chính mình để giao cho các chủ thể là người nhận bảo lãnh xử lý.
Phạm vi bảo lãnh:
Nghĩa vụ của người có nghĩa vụ hay trong quan hệ bảo lãnh còn có thể gọi là người được bảo lãnh có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định cụ thể của pháp luật hiện hành.
Đối với trường hợp khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại giữa các bên tham gia giao dịch.
Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên đã có thỏa thuận khác.
2. Quy định trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ:
Theo quy định hiện hành tại Bộ luật dân sự 2015 thì việc nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ dân sự được quy định với nội dung cụ thể như sau:
– Khi nhiều người cùng tham gia bảo lãnh cho một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp các bên đã có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
– Khi một chủ thể trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì người đó có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với chính mình theo quy định của pháp luật.
Việc nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ dân sự được quy định cụ thể tại Điều 338 Bộ luật dân sự năm 2015.
Như vậy, việc nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ dân sự được quy định như sau:
Theo quy định cụ thể tại Điều 338 Bộ luật dân sự năm 2015, ta nhận thấy, khi nhiều chủ thể cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập và pháp luật cho phép bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Và trong trường hợp khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thay cho bên được bảo lãnh thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với bên có quyền thì chủ thể đó có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.
Đa phần hiện nay đối với một nghĩa vụ chỉ cần một người bảo lãnh là có thể đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Những trong một số trường hợp nhất định thì việc một người bảo lãnh cho người khác có thể xảy ra những khả năng sau đây:
– Các chủ thể bảo lãnh chỉ cam kết phạm vi bảo lãnh cho một phần nghĩa vụ cụ thể
– Các chủ thể bảo lãnh cam kết bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ nhưng thực tế khả năng để đảm bảo cho việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ là không chắc chắn.
Ta nhận thấy rằng, đối với của hai trường hợp trên rất có thể dẫn đến tình trạng quyền của bên nhận bảo đảm không được thực hiện mặc dù vẫn áp dụng biện pháp bảo đảm. Chính bởi vì thế mà pháp luật dân sự ra đời đã đưa ra quy định trường hợp các bên có thể thỏa thuận nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ, theo đó những người này phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh. Lợi ích và quyền lợi của bên có quyền sẽ được đảm bảo tốì đa bằng việc có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Không những thế, pháp luật cũng quy định khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đốì với chính bản thân mình.
Bên cạnh đó nguyên tắc về bảo lãnh liên đới, pháp luật quy định việc nhiều người đứng ra bảo lãnh cho một người vẫn có thể thực hiện riêng rẽ, độc lập nếu các bên bảo lãnh đã có thỏa thuận bảo lãnh theo từng phần riêng lẻ không trái với quy định của pháp luật hiện hành.
Các quy định về việc nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ dân sự là phù hợp và được ban hành nhằm mục đích đem lại những lợi ích cho bên các bên liên quan, tránh xảy ra các tranh chấp trong quá trình giao dịch.