Qua đoạn trích trong lòng mẹ hãy chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình

Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu chất trữ tình của bài "Trong lòng mẹ" để thấy được phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng. Qua đó chúng ta thấy được nội dung và tác giả gửi gắm.

1. Dàn bài chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình ngắn ngọn nhất

1.1. Mở bài: 

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm

Phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng

1.2. Thân bài:

*Cách 1:

- Tình huống truyện: Cô của bé Hồng ác ý dùng những lời lẽ mỉa mai, cay nghiệt muốn bé hận mẹ nhưng ngược lại bé Hồng lại càng yêu mẹ hơn. Tình yêu của đứa trẻ vẫn tràn đầy tình yêu thương, tin tưởng và ước mơ phá vỡ mọi hủ tục để người mẹ không phải khổ sở.

- Cảm xúc của bé Hồng: nhớ mẹ, đau đớn, tủi nhục, căm giận, căm phẫn, thương yêu tha thiết, sâu nặng...

- Phương thức biểu đạt: kết hợp giữa tự sự và biểu cảm.

- Lời văn: câu so sánh độc đáo, giàu hình ảnh, gợi cảm xúc mãnh liệt

*Cách 2:

Chất trữ tình thể hiện trong văn Nguyên Hồng:

- Tình huống truyện, nội dung đặc sắc:

+ Hồng phải sống trong sự ghẻ lạnh của họ hàng

+ Người mẹ đã lặng lẽ chôn vùi tuổi thanh xuân của mình, chịu nhiều cay đắng, định kiến của xã hội cũ

+ Tình yêu thương, kính trọng mẹ không hề thay đổi, lay chuyển trước những lời nói, ý đồ ác ý của người dì.

– Cảm xúc mãnh liệt của Hồng:

+ Buồn bã, bẽ bàng, căm hận, phẫn uất

+ Quyết liệt bảo vệ thiên chức làm mẹ

+ Hiểu, thông cảm và yêu thương mẹ

- Hình ảnh so sánh ấn tượng, giàu sức biểu cảm, gợi cảm

- Ca từ sôi động, thể hiện tình cảm chân thật, dạt dào

- Khéo léo, khéo léo kết hợp kể, miêu tả và bộc lộ cảm xúc.

1.3. Kết bài:

Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

2. Bài văn chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình hay nhất:

Nhà văn Nguyên Hồng tên đầy đủ là Nguyễn Nguyên Hồng (1918-1982), sinh ra ở Nam Định nhưng chủ yếu sống ở Hải Phòng. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ngòi bút của ông thường viết về những mảnh đời bất hạnh dưới đáy xã hội như trai đánh giày, phu xe, gái điếm, thổ phỉ. Ông có sở trường viết tiểu thuyết, hồi ký và làm thơ. Văn Nguyên Hồng rất trữ tình. Đặc biệt là đoạn trích “Trong lòng mẹ” - một bài ca bất hủ về tình mẫu tử thiêng liêng.

Chất trữ tình trong lời kể của nhà văn được thể hiện qua suy nghĩ, tình cảm của cậu bé Hồng trong cuộc đối thoại với người cô của mình. Khi nghe người cô xúc phạm mẹ với ý định cho bé Hồng rời xa mẹ, bé Hồng rất thương mẹ. Bé nức nở. Nước mắt chảy dài trên khóe mi, rồi xuống cằm rồi xuống cổ. Bé Hồng đồng cảm với cảnh ngộ của mẹ. Chỉ vì thương mẹ, hận mẹ, vì sợ những định kiến nghiệt ngã mà chia rẽ anh chị em, âm thầm sinh con? Đứa bé nói chuyện với cô như thể cô vừa cười vừa khóc.

Bé Hồng rất căm giận những hủ tục phong kiến đã hành hạ mẹ mình. Cô của đứa trẻ chưa nói hết câu, cổ họng nghẹn lại không thể phát ra tiếng: “Phải chi những hủ tục cổ xưa bức hại mẹ tôi là một vật như một hòn đá hay một mảnh thủy tinh, đầu nhọn của mảnh gỗ, Tôi sẽ lấy nó ngay. Cắn, nhai cho đến khi nó bị nghiền nát.”

Chất trữ tình của đoạn trích còn thể hiện ở tâm trạng xúc động, vui sướng của bé Hồng khi được sống trong lòng mẹ. Chiều hôm ấy, tan học về, bé Hồng chợt thoáng thấy một người ngồi trên xe kéo giống mẹ. Cậu bé lập tức đuổi theo và gọi mẹ. Nếu người đó không phải là mẹ cô, đó sẽ là một trò cười lớn cho bạn bè của cô. Và lỗi lầm ấy không chỉ đáng xấu hổ mà còn đáng buồn, như ảo ảnh một dòng nước trong veo chảy trong bóng mát hiện ra trước đôi mắt nứt nẻ của người khách bộ hành lạc lõng giữa sa mạc. Nhưng đó là mẹ của Hồng. Hai mẹ con gặp nhau vui mừng khôn xiết, xúc động rơi nước mắt. Cảm giác sung sướng khi được ở bên mẹ bùng lên trong lòng Hồng: “Em ngồi trên đệm xe, đùi em áp vào đùi mẹ, gối em lên cánh tay mẹ, một cảm giác ấm áp mơn man trên da thịt em mùi quần áo của mẹ tôi và hơi thở từ cái miệng nhai trầu xinh xắn của bà.” Cậu bé nghẹn ngào sung sướng lăn vào lòng mẹ và cảm thấy hạnh phúc, được an ủi vô cùng khi được sống trong tình yêu thương ấm áp của mẹ dành cho mình.

Qua đoạn trích em đồng cảm với cảnh ngộ đáng thương của Hồng. Em trân trọng tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ con Hồng. Tôi cũng học được lối viết trữ tình của nhà văn Nguyên Hồng.

3. Bài văn chứng minh rằng văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình đạt điểm nhất:

Hồi ký là thể loại văn học kể lại một câu chuyện mà chính người viết đã trải qua hoặc trực tiếp chứng kiến. Trong câu chuyện đó, những sự kiện kịch tính nhất được kể lại. Hồi ký của nhà văn thường gắn liền với cuộc đời và tiểu sử của nhà văn. Đoạn trích Trong lòng mẹ giàu chất trữ tình này trước hết được bộc lộ qua tình huống và nội dung câu chuyện được kể.

Nhân vật người kể chuyện - bé Hồng - có hoàn cảnh rất éo le: mồ côi cha, bé Hồng phải sống côi cút giữa những người thân đang tìm mọi cách đùn đẩy trách nhiệm nuôi nấng, xa lánh. Người mẹ phải đi làm xa, chịu nhiều tai tiếng gắn với những định kiến khắc nghiệt của gia đình (thể hiện rõ nhất qua những lời đàm tiếu của bà ngoại). Câu chuyện “nghe đâu” được thể hiện qua những câu chuyện ngồi lê đôi mách của những người ngồi lê đôi mách, tạo cho Hồng hình ảnh một người mẹ nghèo tảo tần nuôi con nhưng không tốt đẹp gì. Câu chuyện “nghe nói” ấy trở thành nỗi đau trong tâm hồn cậu bé, hình thành phản xạ tự vệ trong cậu. Bé không chỉ biết lắng nghe, không chỉ trả lời được câu hỏi của dì mà còn biết nhận xét thái độ thể hiện qua nét mặt, giọng nói, cử chỉ, để nhận biết thật giả trong lời nói của dì. Tôi không chịu nổi sự sỉ nhục của dì đối với mẹ tôi, còn tôi, tôi ở trong hoàn cảnh ăn mày, tôi chỉ biết dùng nước mắt để tự vệ và phản kháng.

Nhưng, những gì cô nói không đúng chút nào. Mẹ Hồng về đúng ngày “giỗ chồng” mà không thấy con trai nên đã “viết thư”. Người mẹ ấy vẫn nhớ con, nhớ người chồng đã khuất, dù đó là một mối tình không hạnh phúc nhưng bà không chối bỏ trách nhiệm làm vợ, làm mẹ. Trước hết, người mẹ hiện ra như trong giấc mơ, nhưng đó là giấc mơ có thật của Hồng. Mẹ “không gầy gò, tiều tuỵ như cô tôi nhớ về bà cố”, “khuôn mặt” “sáng ngời với đôi mắt trong veo, làn da mịn màng, đôi má hồng nổi bật”. Người mẹ ấy hoàn toàn khác với hình ảnh người dì mà người em họ nội miêu tả bằng một trái tim độc ác. Và kế đến là cảm giác vui sướng, hạnh phúc của cậu bé sau chuỗi ngày sống xa mẹ, sống trong những định kiến. Hồng hiểu ý nghĩa và vai trò sâu xa của người mẹ trong cuộc đời của chú: “Con phải lăn vào lòng mẹ, úp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, để bàn tay mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, vuốt ve con. Trở về, người mẹ có một sự dịu dàng vô hạn, đó là cảm giác hạnh phúc ngập tràn, xóa tan mọi đau khổ trước đó: “Con ngồi trên đệm xe, gối đầu vào lòng mẹ, đầu gối lên cánh tay mẹ, con thấy ấm áp vô cùng. Lúc nào cũng vậy. Cảm giác bỗng mơn man khắp da thịt. Mùi áo mẹ và hơi thở từ cái miệng xinh xắn nhai trầu thơm lạ lùng." Cảm xúc của cậu bé về mẹ qua các giác quan (thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác...) đã khiến cậu sống lại tình mẫu tử bất hủ qua những câu thơ trữ tình.

Tình huống truyện kết hợp với nội dung liệt kê là tiền đề tạo nên chất trữ tình của truyện. Một cậu bé phải sống xa mẹ (người mẹ phải xa con để kiếm sống) và phải chịu biết bao khổ cực, những định kiến tàn nhẫn nhưng vẫn không đánh mất tình yêu thương, kính trọng của mẹ; cũng như người mẹ âm thầm chịu đựng, vượt qua đau khổ, bất hạnh cho chính đứa con ruột thịt của mình. Giữa mẹ và con là tình mẫu tử thiêng liêng. Chính mạch cảm xúc đó đã tạo nên sự liên kết của câu chuyện, tạo nên những biểu hiện cảm xúc của cậu bé như: ngậm ngùi, tủi nhục trước hoàn cảnh của mình và của mẹ; giận mẹ hay ngồi lê đôi mách với những điều “nghe nói”, và điểm quan trọng nhất vẫn là thể hiện tình yêu thương với người mẹ bất hạnh của mình.

Cách kể theo thể hồi ký, vừa kể vừa bộc lộ cảm xúc, kết hợp với những hình ảnh bộc lộ tâm trạng, hình thức biểu lộ cảm xúc qua nét mặt, tiếng thổn thức… đều bộc lộ tâm tư, tình cảm, cảm xúc của bé. Ca từ, đặc biệt là đoạn cuối của đoạn trích còn tràn ngập niềm vui sướng, hạnh phúc khi bé Hồng gặp lại mẹ.

5 / 5 ( 1 bình chọn )