Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc

Chất thơ củatruyện Vợ chồng A Phủ không chỉ nâng cao sức biểu cảm cho nội dung tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện tâm hồn tinh tế của tác giả, tình yêu và sự hiểu biết đối với đối tượng được miêu tả.

1. Dàn ý phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất:

1.1. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” cùng với chất thơ độc đáo

1.2. Thân bài:

Chất thơ có trong hình ảnh của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc

Chất thơ trong đời sống sinh hoạt cùng với phong tục tập quán của con người Tây Bắc 

Chất thơ ở con người của – Mị

Chất thơ được thể hiện với ngôn ngữ nghệ thuật

1.3. Kết bài:

Đánh giá lại giá trị tác phẩm  “Vợ chồng A Phủ” với nền văn học và cảm nhận của bản thân em 

2. Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ chọn lọc: 

Tô Hoài là một tác giả nổi tiếng của thể loại truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Ông được biết đến là tác giả của Vùng núi  Tây Bắc. Nhắc đến truyện ngắn của ông, không thể không kể đến tác phẩm  “Vợ chồng A Phủ”. Trong  truyện cổ tích ngày nay, người đọc không chỉ bị tác động bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn dễ xúc động trước  từng lời thơ.

Chất thơ trong tác phẩm văn học mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó mâu thuẫn với  hiện thực cuộc sống, nhưng lại nổi lên từ hiện thực cuộc sống. Hiện thực là lẽ tự nhiên, là sự thật, thơ là ước mơ, lý tưởng nâng đỡ con người. Trong truyện ngắn  “Vợ chồng A Phủ”, chất thơ mang dấu ở mọi ngóc ngách, lan tỏa những giá trị vô cùng cao đẹp.

Đầu tiên chất thơ hiện lên qua núi rừng Tây Bắc, núi non, cánh đồng, sương mù..., không một hình ảnh đặc trưng nào lẫn với bất cứ địa danh nào. Tô Hoài tả cảnh nên thơ, đẹp như tranh vẽ một cách cá tính, sáng tạo. Tây Bắc hiện ra núi rừng quanh năm ẩn hiện trong mây và sương mù. Ban ngày, dù mặt trời có lên cao cũng không thể xua tan sương mù trắng xóa. Đêm xuống, ánh trăng quyện vào khiến không gian hư ảo hơn là hư ảo.

Chất thơ đặc biệt thể hiện rõ khi Tô Hoài chuyển ngòi bút tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc.“Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Tâm hồn thiên nhiên Tây Bắc được miêu tả trong những câu đầy “ý thơ”. Những trang viết về thiên nhiên thanh cao và mùa xuân ấy hài hòa và đẹp như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.

Ngoài ra, chất thơ còn được phát triển qua cuộc sống, phong tục tập quán của người dân nơi đây. Tô Hoài đã xây dựng những hình ảnh quen thuộc về cuộc sống đời thường của người dân Tây Bắc như ngôi nhà trên cây với bếp lửa bập bùng qua mùa đông, lặp đi lặp lại, quay sợi... trang phục. . Từ Phụ nữ H'mông Tây Nguyên.

Mọi nẻo đường, mọi nẻo đường, người ta đến với văn Tô Hoài đều rất đẹp và nên thơ. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất là lễ hội Tết. Khác với người miền xuôi, người dân vùng cao đón Tết khi ngô, lúa đã được thu hoạch. Dù Tết năm ấy đến  “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không thể dập tắt được niềm vui đang len lỏi trong tâm hồn. Không khí Tết Hồng Ngải tràn ngập không khí và hương vị của núi rừng Tây Bắc, khi “trai gái tìm nhau để tỏ tình”, ném còn, đánh quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu…

Đặc biệt, tác giả đã dành nhiều tình cảm, ngôn từ khi miêu tả tiếng sáo - cầu chuyển tải ngôn ngữ của người Mông, thay lời bày tỏ nỗi lòng sâu sắc: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”.  Theo năm tháng, tiếng sáo đã trở thành một nét độc đáo không thể thay thế của xứ sở này:“Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Tiếng sáo gọi tình yêu vượt  thời gian, trở thành  tâm hồn của  bao cặp đôi vùng cao.

Thiên nhiên trong  “Vợ chồng A Phủ” đầy chất thơ, thiên nhiên  là cái nôi chăm sóc người lớn. Từ cội nguồn này, Tô Hoài bắt đầu hành trình đi tìm thơ của những con người mà nét đặc sắc nhất được biểu hiện trong tâm hồn của nhân vật chính - Mị.

Mị là một cô gái trẻ, xinh đẹp như một bông hoa của vùng núi cao Tây Bắc. Vì món nợ truyền thống của cha mẹ, thống lí Pá Tra đã bắt Mị về làm dâu để trả nợ và Mị chìm vào bóng tối. Mị đã nghĩ rằng ở nơi này, nơi mà chất độc trong hang rắn, với sự giúp đỡ của ác quỷ, kẻ phá hoại cái thiện của ma quỷ, đã phải tàn lụi, tôi sẽ sống phần đời còn lại của mình “đến bao giờ chết thì thôi”.  Nhưng đằng sau tâm hồn ấy vẫn còn đó ngọn lửa khát vọng tự do và lòng yêu đời mãnh liệt.

Trong ngôi nhà thống lí của Pá Tra, Mỵ từng hành động, cử chỉ và vẻ bề ngoài đều toát lên vẻ điềm đạm nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng thực chất bên trong ẩn chứa một nghị lực sống vô cùng mạnh mẽ. Như nhà văn Tô Hoài đã từng nhận xét: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Vẻ đẹp nội tâm đáng ngưỡng mộ là tính nhân văn sâu sắc, là chất thơ đặc sắc mà nhà văn đã sáng tạo. Nghe tiếng sáo gọi Mỵ trong những chiều xuân yêu thương, lòng“thiết tha bổi hổi”, giọng ca quen thuộc của núi rừng Tây Bắc đã chạm vào thẳm sâu tâm hồn, làm bừng cháy tâm hồn cô thiếu nữ. Đẹp như chết, Mỵ về làm dâu Pá Tra, trừ nợ cho nhà thống lý. Tiếng sáo tình làm tôi nhớ lại những ngày xưa tự do hạnh phúc, ngày mà  “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

Cũng chính tiếng sáo ấy đã đánh thức  tâm hồn Mị khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước.” Lần đầu tiên sau bước ngoặt làm dâu nhà thống lí, Mị ý thức được bản thân “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Từ một tình trạng bi đát sống không bằng chết, sống mà như cái xác không hồn, Mị đã sống lại một cách chân thực, sống động trong tâm hồn và trí óc. Đó là cuộc sống ẩn dật, sống lặng lẽ như một ngọn hải đăng và ngăn chặn cái chết của linh hồn. Khi nó bốc cháy, nó biến thành một sức mạnh có thể xua đuổi bất cứ thứ gì. Từ đó, Tô Hoài đã khéo léo tái hiện  “chất thơ” trong quá trình phát triển của nhân vật thật đẹp và giàu giá trị nhân văn. Dù cuộc sống có chìm trong bi kịch nhưng nó vẫn gửi gắm ước vọng mãnh liệt về một tương lai  tươi sáng tốt đẹp cho mỗi người.

Không chỉ vậy, chất thơ của  “Vợ chồng A Phủ” còn được thể hiện qua một ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. Tô Hoài sử dụng nhiều âm thanh, hình ảnh gợi dục vừa  màu sắc, vừa rất  thơ. Ngôn ngữ văn xuôi vừa là cái cụ thể rõ ràng, vừa là cái trừu tượng vô hình. Nhịp điệu, nhịp điệu, giọng văn nhẹ nhàng theo một mạch cảm xúc trôi chảy  trong tâm trạng, tình cảm của tác giả. Trong thế giới cảm xúc đa tầng, muôn màu, Tô Hoài còn có khả năng thể hiện xuất sắc những rung động, cảm xúc tinh tế. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa không khí lãng mạn với bút pháp trữ tình và sự nhuần nhuyễn của bút pháp khéo léo. Hội họa và âm nhạc được kết hợp khéo léo với văn học để tạo nên sự cộng hưởng hài hòa giữa thơ  và văn.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” thực sự là một tác phẩm văn học đích thực, có nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Bởi những giá trị ý nghĩa về nội dung và sáng tạo để lại dấu ấn về nghệ thuật, truyện ngắn xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu xuất sắc cho hồn thơ Tô Hoài.

3. Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ hay nhất: 

Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam đương đại với khối lượng tác phẩm đồ sộ viết về nhiều đề tài, thể loại, hướng đến nhiều đối tượng độc giả khác nhau. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp để tạo nên vùng núi Tây Bắc nước ta, Tô Hoài đã để lại  nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc đối với con người và thiên nhiên nơi đây. Trong thời kỳ kháng chiến, sống và sinh hoạt với đồng bào các dân tộc, tác giả cảm nhận và đồng cảm sâu sắc với những  người dân chịu ách áp bức của cả cường quyền và thần quyền. Vì vậy, các tác phẩm hiện thực  ra đời, tiêu biểu nhất là Vợ chồng Phủ, không chỉ có ý nghĩa, nội dung sâu sắc, phản ánh chân thực đời sống của người dân miền núi trong những năm tháng chiến tranh mà  còn có ý nghĩa quan trọng đối với mọi người trong Tây Bắc. quốc gia Hoài tìm và sưu tầm. Sự thấu hiểu, tình cảm và sự trân trọng của tác giả được thể hiện  rất tinh tế, nhẹ nhàng  qua những ý thơ trong tác phẩm khiến người đọc cảm động sâu sắc về cuộc đời, số phận của từng nhân vật. , mà còn là những nét độc đáo của một vùng đất xa xôi  mây phủ.

Về lịch sử Tây Bắc, vợ chồng A Phủ Tô Hoài có nói cụ thể:“Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Rõ ràng cuộc đời của nhân vật Mị hay A Phủ là một cuộc đời ghi đậm bi kịch đau khổ đến tuyệt vọng, nhưng dưới ngòi bút của Tô Hoài, dưới cái nhìn sắc sảo, sâu sắc vào nội tâm nhân vật, ông đã không quá đề cao. Nó. Thay vào đó, Tô Hoài khiến người đọc cảm nhận điều đó qua suy nghĩ và cử chỉ của nhân vật. Và cách anh viết về những cảnh đời Tây Bắc, những phong tục, những công việc, những nét đặc trưng mà chỉ nơi đây mới có, dễ khiến người đọc cảm nhận được không chỉ tâm hồn, mà cả số phận, số phận và nỗi đau. của từng ký tự.Tô Hoài muốn cắt nghĩa cuộc đời bế tắc, vô vọng của mình qua một hình ảnh rất đặc biệt, nơi tôi sống trong căn phòng chỉ có  ô cửa sổ nhỏ bằng lòng bàn tay và “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.. Đó  là một ý thơ rất đẹp, người đọc dễ hình dung ra một xứ sở mây phủ sương mờ, bồng bềnh thơ mộng, ban ngày  mây hòa  nắng, ban đêm nắng hòa sương. Trăng Đó là một vùng đất rất đẹp và thơ mộng, nhưng Mị  có một cuộc sống khó khăn như tôi. Mị  nhìn thấy mặt trăng trắng, nhưng  không thể phân biệt giữa đêm và ngày, không thể nhận ra sự kỳ diệu  đẹp đẽ của thiên nhiên, và thể hiện một cuộc sống bị giam cầm  và trì trệ. Có thể nói, bài thơ  văn xuôi của Tô Hoài nhấn mạnh số phận của các nhân vật hơn.

Một ví dụ khác về chất thơ và chất nhạc trong thơ của Tô Hoài, phải kể đến cảnh  xuân của Hồng Ngài rộn ràng, tươi vui và độc đáo. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Cảm nhận cái không khí  dễ chịu như làn gió xuân mát rượi, cái nắng ấm áp  ngày giáp Tết,  không khí rộn ràng, vui vẻ báo hiệu mùa xuân đến. Chỉ vài câu  tả cảnh đã gợi lên cả một không gian  rộng lớn, rực rỡ của Tây Bắc. Có lẽ cảm giác thôi thúc nhất  là cảm giác tự do, phóng khoáng. Nhưng khi trở về với cuộc sống đời thường, Mị lại càng cảm thấy tủi thân hơn khi được ở trên một đất nước xinh đẹp như vậy. Bên cạnh cách viết, cùng với những diễn biến tâm trạng, ý thơ của Tô Hoài là cũng dệt thành từng câu. Nói đến cuộc sống trong  nhà thống lý Pá Tra , người ta có thể dễ dàng nhận thấy cuộc sống,  cách sinh hoạt của người Mông sống ở vùng núi phía Bắc: Làm ruộng. ngô, ruộng lúa..., kéo sợi lanh, dệt vải, cõng ngựa, cắt cỏ ngựa, bổ củi, giặt đay, xe đay...

Rồi cảnh nhóm lửa, cảnh không dập than trong đêm đông lạnh giá, v.v. Hoặc khi hóa trang, nữ mặc váy hoa, tóc vấn  khăn, nam đeo vòng bạc, khăn trắng. Và nói đến thơ Phu Vài, đặc sắc nhất là cách  Tô Hoài  miêu tả  mùa xuân Hồng Ngài, mùa xuân của vùng cao. Ở đây quan niệm rằng mùa xuân đến theo mùa gặt hái, ăn Tết không kể ngày tháng, mừng năm mới khi thu hoạch xong ngô, lúa, còn xuân đến, cuối vụ thì mừng. . Và mùa xuân này, Tô Hoài cũng rất tinh tế, khi đặt cảnh những chàng trai, cô gái mùa xuân tìm nhau để tỏ tình,  khoác lên mình  bộ quần áo đẹp nhất, họp thành nhóm, lập hội ném đinh, chơi đùa. sáo, kèn, uống rượu… đầy rạo rực, say đắm, đậm hương vị núi rừng Tây Bắc, tự do, bay bổng. Trong đó  Tô Hoài miêu tả năm mới với những hình ảnh giàu nhạc tính  và màu sắc mang lại không khí rộn ràng, náo nhiệt “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ […] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”.  Hay cách ăn mặc đón Tết của  phụ nữ miền núi, mỗi  dân tộc đều có  nét  riêng “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”. Có thể nói, qua con mắt nhạy cảm và giàu  cảm xúc của Tô Hoài, mùa xuân Tây Bắc hiện lên thật chân thực và ấn tượng giàu chất thơ tả cảnh.

Điểm nhấn đặc sắc, có thể xem là âm thanh đó đã đánh thức khát vọng tự do hạnh phúc ở nhân vật Mị bên tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn trong những chiều xuân tình tứ “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”.  Cây sáo này làm tôi nhớ đến dòng chữ:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Tao không có con trai con gái

Tao đi tìm người yêu…

Anh ném pao em không bắt

Em không yêu quả pao rơi rồi”

Đó là những ca khúc thể hiện lối sống phóng khoáng, tự do của người dân xứ núi, nhưng khi hát về Mị , nó như chạm đến  tâm hồn Mị , Mị còn trẻ, Mị khao khát  tự do và niềm hạnh phúc, khát khao yêu thương mà chồng  không thể cho Mị. Nỗi đau  dần trỗi dậy trong tâm hồn cô gái, đó cũng là lúc Mị bừng tỉnh sau những năm dài im lặng và đau khổ. Mị uống rượu, Mị nốc từng bát, đây không chỉ là biểu hiện của nỗi thất vọng, đau đớn bấy lâu trong lòng  mà còn là biểu hiện của một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, hừng hực lửa. cháy bỏng trong tim, nhiều  thơ và ý nghĩa. Mị yêu đời trở lại và những kỷ niệm đẹp trong quá khứ lại hiện về trong tâm trí:  “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Rồi cuối cùng, dưới tác động của tiếng sáo, bạn được gọi là say rượu,  “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi…”.  Có thể nói Mị liên quan đến nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc miền núi phía Bắc, để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc về cuộc sống của người phụ nữ Mông ở Hồng Ngài  xưa. Tính nhân văn của tác phẩm được Tô Hoài khéo léo lồng vào tác phẩm bằng ý thơ tinh tế, cảm xúc sâu lắng và bằng một sự đồng cảm  mà không phải nhà văn nào cũng có được.

Mị và A Phủ đều là những  người phải chịu đựng sự áp bức cùng cực, nhưng khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc của tâm hồn  hoàn toàn bị vùi dập, dập tắt, không thể chỉ chờ thời cơ để bùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. cảnh Mị và A Phủ nắm tay nhau chạy xuống dốc gợi cho người đọc những cảm xúc sâu sắc. Nó xuất hiện trước hết từ sự tự giải phóng và vươn lên mạnh mẽ của hai nhân vật chính, và thứ hai là từ niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn cho tất cả mọi người ở đây. , có lẽ một ngày nào đó không phải tất cả những  người bị áp bức sẽ tìm ra con đường của mình.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Hoài là một trong những tác phẩm hiện thực tinh túy nhất viết về đồng bào các dân tộc vùng núi phía Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp. Vẻ đẹp của tác phẩm không chỉ bắt nguồn từ nội dung chân thực, có giá trị  nhân đạo sâu sắc mà còn  từ những ý thơ trong văn xuôi, mang đến cho người đọc cái nhìn, cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên, thiên nhiên và con người vùng núi phía Bắc. Qua đó, chúng ta mới cảm nhận được tấm lòng chân thành của tác giả và mối liên hệ sâu nặng của ông với vùng đất Tây Bắc Tổ quốc.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )