Phân tích 4 khổ thơ đầu trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Dù mưa bom bão đạn, dù cuộc sống chiến đấu còn muôn vàn khó khăn nhưng những người lính vẫn luôn lạc quan, yêu đời, một lòng vì Tổ quốc yêu thương. Tinh thần đó được thể hiện rõ nhất qua 4 khổ thơ đầu của bài thơ Tiểu đội xe không kính, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kĩ hơn qua bài viết dưới đây nhé

1. Dàn ý phân tích 4 khổ thơ đầu trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

1.1. Mở bài:

Phạm Tiến Duật là nhà thơ được tôi luyện và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ và vẻ vang.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong ba bài thơ đoạt giải nhất báo Văn nghệ năm 1969.

Giới thiệu bốn khổ thơ đầu

1.2. Thân bài:

Hai câu đầu

Một câu hỏi và câu trả lời rất hồn nhiên và tự nhiên của một người lính. Xe tải có kính, nhưng trong bom đạn thì “kính vỡ”.
Các phép điệp: “không… không… không”, “bom giật, bom rung” làm cho giọng thơ mạnh mẽ, gợi lên không khí ác liệt của chiến trường.

Tư thế chiến đấu cực đẹp: Tư thế ngồi “bình thường” kiểm soát thế trận vừa phải. Một cái nhìn bao quát giữa chiến trường: “Trông đất, trông trời, nhìn thẳng”.

Câu thơ 2/2/2 với điệp ngữ “trông” thật đẹp thể hiện tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc, anh dũng của người lính trẻ dưới làn mưa bom, bão đạn của giặc Mỹ.

Khổ thơ thứ hai

Mở ra không gian bao la, những con đường chiến lược phía trước
Các cụm từ: “thấy gió…”, “thấy đường…”, rồi “thấy sao trên trời…”: có giá trị diễn tả đoàn xe không kính nối đuôi nhau diễu hành. khác ra chiến trường.
Đoàn xe không kính lao đi trong cảnh “rung rinh bom đạn”, trải qua biết bao gió bụi, cực khổ các anh vẫn hành quân dưới mưa.

Nghệ thuật:

Đoạn thơ trên đầy vẻ đẹp nghệ thuật. Bài thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” của thời đẫm máu.

Những từ ngữ, cách nói ám chỉ, hình ảnh chiếc xe không kính, tư thế lái xe, dáng vẻ, mái tóc, nụ cười… đã khắc họa đẹp tinh thần anh dũng của tiểu đội xe không kính và đồng đội của họ. 

1.3. Kết bài:

Tóm tắt nội dung và nghệ thuật của bốn khổ thơ đầu.

2. Phân tích 4 khổ thơ đầu của Bài thơ Tiểu đội xe không kính hay nhất:

Phạm Tiến Duật là cây bút lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tập thơ tiêu biểu của ông. Bốn khổ thơ đầu của bài thơ đã phác họa những nét đầu tiên về hiện thực chiến tranh và làm nổi bật hình ảnh người lính anh dũng, dũng cảm.

“Không có kính không phải vì không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Hai câu thơ đầu như một lời giải thích ngộ nghĩnh, hồn nhiên của người lính về hình ảnh “chiếc xe không kính”. Từ “không” được lặp lại ba lần với cấu trúc câu “Không…không…không…” kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” thể hiện rõ nét hiện thực tàn khốc của chiến tranh của người lính hiện lên như một tượng đài đẹp nhất với tư thế “điềm tĩnh” với chữ “ta” khẳng định bản lĩnh làm chủ của họ. Bất chấp mưa bom bão đạn, họ vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng bước tiếp. Ở vế 2, 2 câu thơ có từ láy “trông” thể hiện rõ phong thái tự tin, tư thế hào hùng, hiên ngang.

Khổ thơ thứ hai nối tiếp mạch cảm xúc bằng một “cái nhìn thẳng” đầy quyết đoán của khổ thơ thứ nhất:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chảy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Điệp ngữ “nhìn thấy” đã vẽ ra một không gian rộng lớn, liên hoàn của những cuộc hành quân gian khổ. Có gió bụi, có sao trời chim muông,… Vì xe không có kính nên mọi thứ như “bỗng dưng” “chảy thẳng vào tim”, “lao vào khoang lái” với tốc độ chóng mặt. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, vượt qua mọi địa hình hiểm trở không một giây phút nao núng. Họ đại diện cho những người lính với tinh thần sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, chiến đấu vì một phần máu thịt của dân tộc.

Họ không chỉ đối mặt với cơn gió “khủng” - một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế, mà còn phải đối mặt với cơn mưa bụi khắc nghiệt:

“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.

Phạm Tiến Duật đã khéo léo sử dụng biện pháp kết cấu “Không kính, cũng…” ở hai khổ thơ liên tiếp, thể hiện rõ tinh thần lạc quan của người lính. Dù là “bom rung” hay " mưa”, họ vẫn sẵn sàng vượt qua, bất chấp mọi gian khổ. Không chỉ vậy, họ sống với khó khăn, thử thách bằng cái nhìn lạc quan, nhẹ nhõm và hóm hỉnh: “Bụi phun tóc trắng như ông già”, “Mưa tạnh, gió mau khô”, vậy hãy "châm một điếu" để tận hưởng những giây phút bình dị và hạnh phúc trên đường ra trận. Tiếng cười “ha ha” của lũ trẻ một lần nữa cho thấy thái độ “lính” lạc quan của con người dũng cảm trong khói lửa chiến tranh. Trái ngược với hai chữ “không”, họ có cả một trái tim nồng nàn và một tinh thần sắt đá, dũng cảm tiến lên cứu đồng bào. Ở miền Nam Tổ quốc, đó chính là lòng yêu nước bất diệt trong lòng người chiến sĩ.

Với thể thơ tự do, giàu chất văn xuôi, câu thơ linh hoạt, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh độc đáo kết hợp với phép điệp ngữ, so sánh, bốn khổ thơ đầu đã làm nổi bật hiện thực khốc liệt của chiến tranh và qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của người lính với tư thế hào hoa, chủ động, lạc quan và dũng cảm.

Như vậy, bốn khổ thơ đầu của bài thơ như khúc dạo đầu của một bản giao hưởng hào hùng về người lính. Cả bài thơ tuy nói về sự thiếu thốn của chiến tranh nhưng không mang âm hưởng đau thương mất mát mà ngược lại. Đó chính là nét độc đáo trong ngòi bút lạc quan nhưng không kém phần dí dỏm, hóm hỉnh của Phạm Tiến Duật.

3. Phân tích 4 khổ thơ đầu của Bài thơ Tiểu đội xe không kính ấn tượng nhất:

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn...

“Những đoàn quân trùng trùng ” đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật nhắc đến trong bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và hàng nghìn, hàng vạn nam nữ thanh niên Việt Nam xông pha trận mạc với tinh thần “xung đột”. Trường Sơn đi cứu nước” trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên đường mòn Hồ Chí Minh.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn còn cảm nhận được sự rạo rực của không khí chiến trường và tinh thần chiến đấu của những người lính trong đoàn binh vận. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ, hùng hồn vang lên như một bản trường ca hào hùng.

"Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"

Hai cây cầu đầu tiên như một câu hỏi đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe tải có kính, nhưng trong bom đạn “vỡ kính”. Các phép điệp ngữ: “không.. không.. không”, “bom giật, bom rung” làm cho giọng điệu thơ gợi lên không khí ác liệt của chiến trường. Đoạn thơ đã thể hiện những đoàn xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, hình ảnh người lính dũng cảm, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa.

Một tư thế chiến đấu rất đẹp:

"Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng"

Cái dáng "ung dung" ngồi đúng cách kiểm soát tình hình. Một tầm nhìn bao quát giữa chiến trường: “Trông đất, ngó trời, mắt nhìn thẳng”. Câu thơ 2/2/2 với điệp ngữ “trông” thật đẹp đã thể hiện tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc, anh dũng của người lính trẻ dưới mưa bom, bão đạn của giặc Mỹ.

Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những con đường chiến lược phía trước. “Thấy gió…”, “thấy đường…”, rồi “thấy sao trời…” Những cụm từ này có giá trị diễn tả một đoàn xe không kính nối đuôi nhau diễu hành. Xe không có kính, xe phóng băng băng nên “gió lùa vào dụi mắt cay xè”. Từ “cay đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách hành văn tài tình. Sao trời, cánh chim mà người lính “thấy” như “rơi vào buồng lái” diễn tả tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính xông pha trận mạc mọi lúc, mọi đêm, trên mọi địa hình hiểm trở:

"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái"

Bộ đội xe không kính lao đi trong cảnh “bom đạn rung chuyển”, trải qua biết bao gió bụi, gian khổ vô cùng, các anh vẫn hành quân dưới mưa. Hai câu thơ sau xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:

Không có kính, ừ thì có bụi,
- Không có kính, ừ thì ướt áo.

Mưa lâm thâm, xe không kính thì khổ không thể tả: “Trời mưa mà cứ như ở ngoài trời”. Giữa gian khổ, các anh vẫn anh dũng xông lên chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:

"Không có kính, ừ thì ướt áo,
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi."

Thơ là biểu hiện đẹp đẽ của con người và thời đại. Những con người và thời đại được nhắc đến trong bài thơ trên là những người lái xe gan dạ, dũng cảm, lạc quan, yêu trẻ, hồn nhiên trong gian khổ, hiểm nguy trên con đường chiến lược Trường Sơn trong chiến tranh Việt Nam. Đội hình không kính tiêu biểu cho tinh thần anh dũng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.

Đoạn thơ trên đầy vẻ đẹp nghệ thuật. Bài thơ nhuốm màu văn xuôi thể hiện “phẩm chất lính” của thời đại đẫm máu. Những từ ngữ, cách nói ám chỉ, hình ảnh chiếc xe không kính, dáng ngồi lái xe, dáng vẻ, mái tóc, nụ cười… đã khắc họa đẹp đẽ khí thế hào hùng của đội xe không kính. Đồng thời làm cho giọng thơ khỏe khoắn, hào hùng mang âm hưởng sử thi.

Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nhắc đến đã gợi tả đầy ấn tượng về sự gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền đó, hình ảnh tiểu đội xe tăng anh dũng gây cho chúng ta nhiều cảm phục.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )