Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có người thân gây tai nạn giao thông chết người. Và người đó cũng vừa mất do tự tử. Xin hỏi luật sư giờ người gây tai nạn đã mất vậy gia đình tôi có trách nhiệm phải bồi thường cho nạn nhân không hay chỉ có người gây tai nạn mới có trách nhiệm đó?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
2. Nội dung tư vấn:
Căn cứ theo Điều 604 “Bộ luật dân sự 2015” quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Theo đó, hành vi của người thân trong gia đình bạn là hành vi gây tai nạn giao thông dẫn đến thiệt hại cho tính mạng của người khác. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ được đặt ra.
Về nguyên tắc người có hành vi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Căn cứ theo quy định tại Điều 605 “Bộ luật dân sự 2015” quy định
Điều 606. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Vì bạn không trình bày rõ về độ tuổi của người thân bạn vì vậy ta có thể chia các trường hợp như sau:
Trường hợp thứ nhất, người thân của bạn đã từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo quy định của pháp luật thì người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. Tuy nhiên trong trường hợp này người gây thiệt hại đã chết. Mặc dù, trong trường hợp này người gây ra thiệt hại đã chết tuy nhiên gia đình bạn vẫn phải tiến hành bồi thường thiệt hại bằng số di sản mà người đó để lại. Trường hợp, người gây ra thiệt hại không để lại bất kỳ một di sản nào thì trong trường hợp này gia đình bạn cũng không có trách nhiệm phải bồi thường.
Trường hợp thứ hai, người thân của bạn là người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Trong trường hợp này thì nếu người thân của bạn mà còn cha mẹ thì cha, mẹ của người đó phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trừ trường hợp được quy định tại Điều 621 “Bộ luật dân sự 2015”
1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hình vi dân sự phải bồi thường.
Như vậy, trong trường hợp người thân của bạn chưa thành niên mặc dù người thân của bạn đã chết thì cha, mẹ của người đó vẫn phải tiến hành bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trừ các trường hợp tại Điều 621 “Bộ luật dân sự 2015”.
Trường hợp thứ ba, người thân của bạn là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, người đó gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Như vậy, trong trường hợp này, người thân của bạn là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ của người đó phải tiến hành bồi thường toàn bộ thiệt hại trừ trường hợp người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
– Về mức độ bồi thường thì các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trường hợp các bên liên quan tự thương lượng, thỏa thuận khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại thì phải có bản cam kết thống nhất thỏa thuận về mức và hình thức bồi thường thiệt hại giữa các bên; ký và ghi rõ họ, tên những người liên quan.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
– Trường hợp các bên liên quan trong vụ tai nạn giao thông không tự thỏa thuận, thương lượng được với nhau thì Cảnh sát giao thông có trách nhiệm hướng dẫn các bên liên hệ với Tòa án để giải quyết theo thủ tục dân sự.
Việc bồi thường thiệt hại, gia đình bạn có thể yêu cầu CSGT hướng dãn giải quyết việc bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Về chi phí bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật bao gồm:
Căn cứ theo Điều 610 “Bộ luật dân sự 2015” quy định
Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Mức bồi thường hoàn toàn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.