Nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản 1952-1973

Nhật Bản là một trong những quốc gia hiện đại và có nền công nghệ tiên tiến nhất thế giới. Tuy nhiên, trong quá khứ Nhật Bản đã là nước vô cùng khó khăn. Vậy đâu là yếu tố giúp Nhật Bản thành công và phát triển như ngày nay? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những thông tin về chính sách đối ngoại của Nhật Bản những năm 1952-1973.

 

1. Giới thiệu thông tin chung về Nhật Bản:

Nhật Bản (Nhật Bản – viết tắt là Japan – tên chính thức là Japanese Nation) là một hòn đảo ở  Đông Á với tổng diện tích 379.95 km2, là quốc gia có diện tích lớn thứ 60 trên thế giới và nằm ở phía đông của lục địa châu Á. Quốc gia này nằm ở rìa phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải dài từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển Hoa Đông và đảo Đài Loan ở phía nam. 

Nhật Bản có khí hậu ôn đới và mùa rõ rệt nhưng mỗi vùng lại có khí hậu khác nhau trên khắp cả nước. Nhật Bản cũng được biết đến với quần đảo núi lửa, với khoảng 6.852 hòn đảo và 186 ngọn núi lửa đang hoạt động. Dân số Nhật Bản ước tính khoảng 126,9 triệu người, đứng thứ 10 trên thế giới. 

2. Giới thiệu tổng quan về con người Nhật Bản:

Theo điều tra dân số năm 2017, Nhật Bản có tổng dân số 126,9 triệu người, chiếm 1,68% dân số thế giới. Người Nhật rất khỏe mạnh, dẻo dai, thậm chí phụ nữ có thể đứng làm việc cả ngày, thậm chí 70, 80 tuổi vẫn hăng say với công việc, không phải vì ham tiền mà vì yêu công việc.

Tính cách con người Nhật Bản hết sức đặc biệt, có lẽ nhờ tính cách này mà người Nhật đã biến đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, khí hậu khắc nghiệt của mình trở thành một cường quốc tiên tiến đứng thứ 3 trên thế giới. Những đặc điểm này có thể được tóm tắt như sau:

‐ Người Nhật rất tò mò và nhạy cảm với các nền văn hóa nước ngoài, họ luôn miệt mài nghiên cứu và học hỏi để bắt kịp xu hướng.

‐ Đối với người Nhật, địa vị gia đình, địa vị xã hội và thu nhập không quan  trọng bằng trình độ học vấn. 

‐ Họ sẵn sàng tiếp nhận những nền văn hóa mới hiện đại nhưng luôn giữ gìn bản sắc dân tộc. 

‐ Tinh thần làm việc nhóm rất cao, không nơi nào khác ở phương Đông. Trong công việc, người Nhật thường gạt cái tôi riêng sang một bên và coi trọng cái chung. Họ có thể cạnh tranh khốc liệt, nhưng đôi khi họ cũng có thể làm việc cùng nhau vì một mục tiêu chung. 

‐ Bản chất người Nhật không thích đối kháng, đặc biệt là đối đầu cá nhân, họ luôn ủng hộ sự hòa hợp đến mức bỏ qua sự thật để duy trì sự thống nhất, hòa bình, thể diện. Danh tiếng là vấn đề then chốt. 

‐ Đức tính tốt của người Nhật là rất chăm chỉ và trung thành.

3. Nhật Bản những năm 1952-1973 :

Những năm 1952-1960, nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng, đặc biệt giai đoạn 1960-1973 được gọi là thời kỳ phát triển thần kỳ. 

Từ những năm 70, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế tài chính lớn nhất thế giới. 

Khoa học và công nghệ Nhật Bản tập trung vào sản xuất các ứng dụng dân sự và đã đạt được nhiều thành tựu. 

Từ 1955 đến 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền liên tục với chính sách “nhà nước phúc lợi chung”  giúp Nhật Bản tăng gấp đôi thu nhập quốc dân trong 10 năm (1960 – 1970).

Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ – Nhật Bản (ký năm 1951), có hiệu lực trong 10 năm và vĩnh viễn sau đó. Năm 1965, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và sau đó trở thành thành viên của Liên hợp quốc.

3.1. Về Kinh tế:

Từ năm 1953 đến năm 1960 có sự phát triển nhanh chóng, từ năm 1960 đến năm 1973 nền kinh tế Nhật Bản bước vào thời kỳ “phát triển thần kỳ” với tốc độ tăng trưởng cao liên tục và có nhiều năm đạt hai con số. (1960 – 1969 là 10,8%). Nhật Bản trở thành  siêu cường kinh tế (sau Hoa Kỳ). 

Đến năm 1968, Nhật bản nổi lên như cường quốc kinh tế tư bản chủ nghĩa lớn thứ hai sau Hoa Kỳ. Từ đầu những năm 70, Nhật Bản (cùng với Mỹ và Liên minh châu Âu) trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới.

Nguyên nhân của sự phát triển kinh tế:

Coi trọng yếu tố con người: được đào tạo chu đáo, có học thức, có ý thức tổ chức và kỷ luật, được trang bị kiến ​​thức và chuyên môn, cần cù và tiết kiệm, có tính cộng đồng…; được coi là vốn quý nhất, là “công nghệ cao nhất”, là yếu tố quyết định hàng đầu.

Vai trò lãnh đạo, quản lý hiệu quả của chính phủ và doanh nghiệp Nhật Bản (ví dụ: thông tin, dự báo về tình hình kinh tế thế giới; ứng dụng phát triển khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao sản lượng), năng suất và sức cạnh tranh của hàng hóa cao, tín dụng… . .)

Các công ty Nhật Bản năng động, có tầm nhìn dài hạn và quản lý tốt nên có tiềm lực và khả năng cạnh tranh lớn.

Luôn ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao năng suất, cải tiến mẫu mã, giảm giá thành sản phẩm.

Chi quốc phòng thấp nên có điều kiện tập trung phát triển kinh tế.

Lợi dụng hoàn cảnh bên ngoài như viện trợ của Mỹ, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và Việt Nam (1954 -1975) để làm giàu.

3.2. Khoa học kỹ thuật:

Nhật Bản rất coi trọng giáo dục và khoa học kỹ thuật, tập trung chủ yếu vào nghiên cứu chế tạo dân dụng. 

Sản xuất nhiều mặt hàng dân dụng nổi tiếng thế giới (ti vi, tủ lạnh, ô tô…), tàu chở dầu công suất lớn (1 triệu tấn), xây dựng đường hầm dưới nước dài 53,8 km nối liền đảo Honsu và Hokkaido, đảo Honsu và đảo Sikochi, xây cầu đường bộ dài hàng km…

3.3. Chính sách đối ngoại:

Trong thời kì Chiến tranh lạnh

Chính sách đối ngoại của Nhật Bản dựa trên liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ, thể hiện qua việc ký kết Hiệp ước Hòa bình San Francisco và Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ – Nhật Bản (tháng 9 năm 1951), sau đó được gia hạn nhiều lần. Như vậy, Nhật Bản đã đồng ý đứng dưới “chiếc ô” bảo vệ hạt nhân của Mỹ, cho phép Mỹ triển khai quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản. 

Năm 1956, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ với Liên Xô và gia nhập Liên hợp quốc. 

Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Năm 1978, Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị giữa Nhật Bản và Trung Quốc được ký kết.

Tháng 8 năm 1977, Học thuyết Fukuda ra đời, đánh dấu sự “trở lại” của Nhật Bản ở châu Á. 

Năm 1991, Nhật Bản đưa ra “Học thuyết Kaiphu” nhằm tiếp tục phát triển “Học thuyết Fuuda” trong bối cảnh lịch sử mới nhằm tăng cường quan hệ  kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước. Một quốc gia ở Đông Nam Á.

Sau thời kì “Chiến tranh lạnh”

Nhật bản tiếp tục quan hệ đồng minh chặt chẽ với Mỹ, Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ vĩnh viễn được ký kết vào tháng năm 1996. Mặt khác, Nhật Bản vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu và mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. 

Hợp tác kinh tế của Nhật Bản với các nước NIC và các nước ASEAN đang phát triển nhanh chóng.

4. Nền tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản 1952-1973:

Nhật bản đặt nên tảng đối với chính sách đối ngoại theo hướng liên minh chặt chẽ với Mỹ để tận dụng triệt để sự bảo hộ của Mỹ nhằm tập trung phát triển kinh tế; Tuy nhiên, Nhật bản vẫn duy trì và mở rộng quan hệ quốc tế như Quan hệ chặt chẽ với các nước Đông Nam Á, hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, liên minh chặt chẽ với các nước Tây Âu

Trong đó, nền tảng trong chính sách đối ngoại quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển mạnh mẽ của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 – 1973 vẫn là liên minh chặt chẽ với Mỹ. Hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật (ký năm 1951) có giá trị 10 năm, sau đó được kéo dài vĩnh viễn.

5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ sự phát triển kinh tế của Nhật Bản:

Từ những nội dung trên ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:

Nêu nguyên nhân chính giúp Hoa Kỳ phát triển kinh tế là khoa học – công nghệ, vì Hoa Kỳ là nước dẫn đầu. là người đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ hai, đạt được nhiều thành tựu nổi bật. 

Tuy nhiên, đối với Nhật Bản, nước đã thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai và phải gánh chịu hậu quả nặng nề thì khác; Nghèo nàn tài nguyên thiên nhiên, cơ cấu kinh tế mất cân đối và bị các nước tư bản cạnh tranh gay gắt.

Do đó, sức mạnh của người Nhật  đóng vai trò quan trọng nhất dẫn đến sự phát triển thần kỳ của đất nước này trong giai đoạn 1960 – 1973.  

Vì vậy, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có thể vận dụng bài học này, tập trung đầu tư vào phát triển giáo dục phổ thông, ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật của thế giới, lấy phát triển giáo dục làm quốc sách là chính để tạo ra nguồn lực bền vững, dứt điểm cho hiện nay.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )