Theo như quy định của pháp luật hiện hành thì đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi thì cần có người đại diện giám sát người bị buộc tội dưới 18 tuổi. khi cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát thì cần có quyết định về việc này. Vậy mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát có nội dung như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát là gì?
Mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát là mẫu văn bản được cơ quan có thẩm quyền lập ra để quyết định giao người bị buộc tội là người chưa thành niên cho đại diện giám sát theo như quy định của pháp luật hiện hành. Mẫu quyết định được quy định với nội dung về cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giao người bị buộc tội chưa đủ tuổi thành niên cho đại diện giám sát. Mẫu quyết định được ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA về quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự do Bộ trưởng Bộ Công an (Hiện đã hết hiệu lực).
Mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát được cơ quan có thẩm quyền lập ra để quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát theo như quy định của pháp luật hiện hành. Mẫu quyết định là cơ sở để người đại diện giám sát đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo như quy định của pháp luật hiện hành về đại diện người giám sát.
2. Mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát:
….
…..
___________
Số:……..
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
___________
…, ngày ……… tháng ….. năm……
QUYẾT ĐỊNH GIAO NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
CHO NGƯỜI ĐẠI DIỆN GIÁM SÁT
Tôi: …..
Chức vụ: …..
Căn cứ hành vi phạm vào điểm …. khoản …. Điều …. Bộ luật Hình sự;
Xét thấy(1)
Căn cứ Điều(2) ….. và Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
Giao cho ông/bà: …..là người đại diện của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, giám sát đối với:
Họ tên: ….. Giới tính:
Tên gọi khác: …..
Sinh ngày….tháng….năm ….tại:
Quốc tịch: …; Dân tộc: …; Tôn giáo:
Nghề nghiệp:
Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu: ….. cấp ngày …. tháng …….. năm …. Nơi cấp:
Nơi cư trú: …..
Ông/bà: …..
có nhiệm vụ giám sát chặt chẽ để bảo đảm sự có mặt của(3) …. khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục họ.
Trường hợp(3) …. có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội thì ông/bà:
….. phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời.
Nơi nhận: ……….
– VKS…..
– Người bị buộc tội;
– Người được giao nhiệm vụ giám sát;
– UBND….
– Hồ sơ 02 bản
Hướng dẫn soạn thảo mẫu quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát:
(1) Ghi rõ nội dung, căn cứ áp dụng;
(2) Ghi rõ thẩm quyền quy định tại Điều 36, Điều 37 hoặc Điều 39 BLTTHS;
(3) Ghi rõ họ tên người bị buộc tội.
3. Một số quy định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho đại diện giám sát:
3.1. Vấn đề giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi:
Thứ nhất, dựa theo quy định tại điều 419, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về việc sử dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát. Do đó, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo như luật định thì có thể quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng của người chưa thành niên phạm tội. Ngoài ra thì cha mẹ, người đỡ đầu cũng có thể đề nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện các biện pháp này. đối với người dưới 18 tuổi có quan hệ nhân thân với mình.
Cũng có những trường hợp mà người chưa thành niên phạm tội không còn cha mẹ, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa thì cơ quan điều tra cần tìm mọi biện pháp để xác định lý lịch cũng như gia đình của họ. Nếu đã làm đủ mọi cách mà vẫn không xác định được lý lịch cũng như gia đình của họ thì cơ quan điều tra đề nghị cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ ở nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội.
Thứ hai, trong trương hợp mà cơ quan có thẩm quyền có ý định giao người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát thì trước khi thực hiện việc này cần phải xem xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, lứa tuổi, tình hình sức khỏe, tiền án, tiền sự của người dưới 18 tuổi (nếu có),…. Ngoài việc xem xét về người dưới 18 tuổi được giao cho người đại diện của họ thì cơ quan có thẩm quyền còn phải xem xét về khả năng giám sát, giáo dục cùa người đại diện của họ. Tuy nhiên, pháp luật nước ta cũng quy đinh đối với người chưa thành niên phạm tội không thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, không cần phải tạm giữ, tạm giam để điều tra và sự giám sát của người đại diện có thể bảo đảm bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội hoặc trốn, thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể giao cho người đại diện của họ giám sát để chờ việc xét xử.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng xác định người giám sát để kịp thời tiếp xúc với người chưa thành niên phạm tội.
Tại quy định này thì có thể thấy cơ quan đã nhận trách nhiệm cử cán bộ giám sát cần cử ngay cán bộ và kịp thòi thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điểu kiện cho họ tiếp xúc, gặp gỡ người chưa thành niên phạm tội khi đã chấp nhận đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng về việc cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, quyết định này cơ quan đã nhận trách nhiệm phải được giao cho người đại diện thực hiện việc giám sát và Công an xã, phương, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú để theo dõi, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của người đại diện của người dưới 18 tuổi.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi:
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người đại diện được pháp luật xác định là người tham gia tố tụng nhưng lại không quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ trong một điều luật cụ thể như những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, quyền, nghĩa vụ của người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được quy định tại nhiều điều khoản khác nhau tại các Điều 331, 338, 418, 420, 421, 422, 423, 469, 470 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
Từ những quy định nêu trên thì có thể khẳng định ràng người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuổi phải có nghĩa vụ giám sát người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng điều này được quy định tại khoản 1 Điều 418, không những thế mà người này còn phải kịp thời thông báo và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời đối với trường hợp người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc tiếp tục phạm tội (khoản 2 Điều 418); Điều quan trong nữa là ngườ đại diện này phải có nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ của mình khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định về việc tham gia tố tụng của người này.
Bên cạnh đó, người đại diện của người bị buộc tội dưới 18 tuồi có được thực hiện các quyền sau, cụ thể: ham gia việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra (khoản 2 Điều 420); Được thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và có mặt khi lấy lời khai người bị bắt, hỏi cung bị can (khoản 1 Điều 421); ngoài ra thì còn có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can (khoản 2 Điều 421) và các quyền khác được quy định tại Bộ luật tố tụng này được thể hiện theo trình tự của Tố tụng hình sự hiện hành.
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;