Việc xác định bị can, bị cáo, xác định loại tội vi phạm cần điều tra, thu thập rất nhiều các tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm. Theo đó, việc giám định đối với người gây án hoặc những chứng cứ kèm theo trong vụ án cũng là một giai đoạn trong xét xử tố tụng.
Mục lục bài viết
1. Mẫu kết luận giám định của hội đồng giám định là gì?
Luật Giám định tư pháp năm 2012 giải thích định nghĩa Hội đồng giám định tư pháp và giám định tư pháp như sau:
Hội đồng giám định là Tổ chức bao gồm các giám định viên được cơ quan có thẩm quyền thành lập để tiến hành việc giám định theo trưng cầu giám định. Có hai loại hội đồng giám định: hội đồng giám định tư pháp và hội đồng giám định không mang tính chất tư pháp.
Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật
Mẫu kết luận giám định của Hội đồng giám định được lập ra khi cơ quan có thẩm quyền giám định nhận yêu cầu trưng cầu giám định đối với một số trường hợp quy định bắt buộc phải được giám định. Trong mẫu kết luận phải nêu rõ thông tin về những người tham gia giám định, đối tượng giám định, nội dung giám định và kết quả giám định.
Mẫu kết luận giám định của Hội đồng giám định là mẫu kết quả được lập ra bởi Hội đồng giám định, người tham gia giám định các trường hợp bắt buộc yêu cầu trưng cầu giám định với mục đích là đưa ra kết luận giám định đối với đối tượng đã được trưng cầu giám định dựa trên quy định pháp luật.
2. Mẫu kết luận giám định của hội đồng giám định:
………
………
Số: ……
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
……, ngày…… tháng…… năm……..
KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỊNH (1)
Căn cứ Quyết định trưng cầu giám định lại số: …….. ngày ……. tháng ……. năm
của …….trong vụ (2) ………..
Theo Quyết định thành lập Hội đồng giám định số: ……… ngày …….. tháng ……. năm…….
của……..
Hội đồng giám định gồm:
1……
2……
3……
4……
5……
Đã tiến hành giám định tại………….
từ ngày ……….. tháng ………. năm ………. đến ngày ……….. tháng ………… năm
1 NỘI DUNG VỤ VIỆC (3):…………
2. ĐỐI TƯỢNG GIÁM ĐỊNH (4):…………
3. YÊU CẦU GIÁM ĐỊNH (5):…………
4. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ GIÁM ĐỊNH (6):………….
5. KẾT LUẬN (7):…………..
6. KÈM THEO KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH CÓ (8):…………..
7. HOÀN TRẢ LẠI ĐỐI TƯỢNG GIÁM ĐỊNH GỒM (9):……
GIÁM ĐỊNH VIÊN
(Ký, ghi rõ họ tên)
(10) ……..
NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH
THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG GIÁM ĐỊNH
(Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu)
3. Hướng dẫn lập mẫu kết luận giám định của hội đồng giám định:
(1) Áp dụng trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 211 hoặc Điều 212 BLTTHS;
(2) Ghi rõ nội dung vụ việc, địa điểm xảy ra theo Quyết định trưng cầu giám định lại;
(3) Ghi tóm tắt nội dung vụ việc; tóm tắt nội dung giám định và kết luận giám định các lần trước.
(4) Ghi rõ tên, số lượng, tình trạng niêm phong của đối tượng giám định (cả đối tượng cần giám định và mẫu so sánh);
(5) Ghi rõ các câu hỏi, yêu cầu giám định.
(6) Ghi các phương pháp đã sử dụng, kết quả, nhận xét và đánh giá;
(7) Ghi kết luận (chỉ được kết luận khẳng định: đúng; không đúng hoặc không đủ cơ sở. Không được kết luận khả năng) theo nội dung trưng cầu giám định;
(8) Ghi tên các tài liệu liên quan.
(9) Ghi rõ tình trạng các đối tượng còn lại sau giám định được hoàn trả, phương thức, nơi hoàn trả;
nếu đã tiêu hủy thì ghi rõ là đối tượng gửi giám định đã được sử dụng hết trong quá trình giám định;
(10) Viện trưởng Viện Khoa học hình sự/Trưởng phòng kỹ thuật hình sự.
4. Một số quy định pháp luật liên quan đến giám định:
4.1. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:
Pháp luật quy định các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cơ quan cần xác định:
– Trưng cầu giám định khi tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ tức là người bị buộc tội có thể lâm vào tình trạng mắc các bệnh tâm thần như trầm cảm, tự kỷ, tâm thần phân liệt được xác định có thể do chưa đủ tuổi để có thể chịu trách nhiệm hình sự về tội mà mình gây ra và cần giám định cả độ tuổi của người đó; khi có dấu hiệu biểu hiện về tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án gây ảnh hưởng đến việc điều tra và xét xử.
– Có nhiều trường hợp khởi kiện vụ án xảy ra với trường hợp có người chết thì khi điều tra vụ án cơ quan có thẩm quyền yêu cầu trưng cầu giám định để có thể tiến hành xác định nguyên nhân chết người trong các vụ án; hoặc trường hợp người chết trong giai đoạn tạm giam.
– Cá nhân có thể yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định đối với tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động của mình để có thể khởi kiện, đề bù thỏa đáng;
– Cơ quan tiến hành trưng cầu giám định để xác định các chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ trong các trường hợp khó nhận dạng;
Theo đó, trong quyết định trưng cầu giám định cần có các nội dung sau:
– Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định;
– Tên tổ chức; họ tên người được trưng cầu giám định;
– Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định;
– Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);
– Nội dung yêu cầu giám định;
– Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định.
Cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Khi nhận quyết định cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định.
Trong trường hợp ki Tòa án xét thấy có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại trong cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định và việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Thành phần của Hội đồng tiến hành giám định gồm có ít nhất 03 thành viên với điều kiện đều là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể đó là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định.
4.2. Kết luận giám định:
– Khi cơ quan giám định đưa ra kết luận giám định thì phải ghi rõ kết quả giám định đối với những nội dung đã được trưng cầu, yêu cầu và những nội dung khác theo quy định của Luật giám định tư pháp.
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi cơ quan có thẩm quyền ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi người yêu cầu giám định nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
– Để làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định, cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định; hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết.
Tùy vào tính chất, nội dung được trưng cầu, yêu cầu giám định mà kết luận giám định có giá trị chứng minh khác nhau, có thể nó có ý nghĩa trong việc định tội danh, định khung hình phạt hoặc làm rõ các tình tiết khác phục vụ yêu cầu giải quyết vụ án.
Như vậy, việc giám định để đưa ra kết luận được cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện trên cơ sở khoa học vì thế, kết luận giám định có ý nghĩa rất quan trọng trong giải quyết vụ án, việc đưa ra kết luận giám định không chính xác có thể dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án. Chính vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của cơ quan, cá nhân, tổ chức thực hiện giám định, điều luật quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể này, họ phải chịu trách nhiệm về kết luận đó. Để phân định rõ trách nhiệm trong trường hợp giám định tập thể, điều luật quy định rõ: nếu việc giám định do tập thể giám định tiến hành thì tất cả thành viên đều ký vào bản kết luận. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận.
Cơ quan trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân giám định giải thích kết luận giám định. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.
Để bảo đảm tính pháp lý của kết luận giám định, nếu kết luận giám định của người được trưng cầu giám định thuộc trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án.