Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là gì? Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự tiếng Anh là gì? Quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự? Quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự?
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, căn cứ thực tế từng trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn luôn thay đổi. Chính vì vậy khi căn cứ để áp dụng một biện pháp ngăn chặn cụ thể không còn thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Vậy theo quy định của pháp luật thì hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được thể hiện như thế nào?
1. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là gì?
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
2. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Tiếng Anh là gì?
Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn tiếng Anh là “Termination or alteration of preventive measures”.
3. Quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể tại Điều 125, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
“1. Mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
b) Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;
c) Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
d) Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngặn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.”
Mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc các trường hợp:
– Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
– Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;
– Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;
– Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
Đây là các trường hợp bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Ngoài ra, biện pháp ngăn chặn có thể bị hủy bỏ khi cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không cần thiết hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác. Trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không áp dụng biện pháp ngăn chặn nào khác được áp dụng khi thấy không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn mà vẫn đảm bảo người bị buộc tội không tiếp tục phạm tội, không tiêu hủy chứng cứ, không gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án…
Trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp ngăn chặn, người bị buộc tội vẫn có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn hoặc nghiêm khắc hơn.
Thẩm quyền phê duyệt hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn cũng được điều luật này quy định. Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải do Viện kiêm sát quyết định. Trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn. Cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải thông báo cho Viện kiêm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.
4. Quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Biện pháp bắt: Biện pháp bắt gồm các trường hợp:
– Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
– Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Việc bắt người phải tiến hành đúng thẩm quyền theo luật định, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Phải có biên bản về việc bắt người và phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết.
Bắt giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt hoặc người đang bị truy nã để ngăn chặn tội phạm. Biện pháp bắt giữ sẽ đảm bảo cho hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm hoặc đảm bảo thi hành án. Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ các đối tượng nêu trên và dẫn giản đến cơ quan công an,Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Trong khi bắt giữ có quyền tước vũ khí của người bị bắt.
Biện pháp tạm giữ: Biện pháp tạm giữ được áp dụng trong trường hợp: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp;phạm tội quả tang; người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
Tổng thời hạn tạm giữ (bao gồm thời hạn tạm giữ thông thường và thời hạn gia hạn tạm giữ) là 9 ngày. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam, một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì người bị tạm giữ phải được trả tự do ngay.
Biện pháp ngăn chặn tạm giữ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội tang để cách ly họ với xã hội trong một thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm.
Biện pháp tạm giam: Áp dụng biện pháp tạm giam trong các trường hợp bao gồm: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự 2015 quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 . Lưu ý rằng: Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú: Biện pháp ngăn chặn này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú có trách nhiệm quản lý, theo dõi họ. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng để buộc bị can, bị cáo không được đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có thái độ khai báo thành khẩn. Trong trường hợp bị can, bi cáo không bị bắt để tạm giam hoặc đã bị tạm giam nhưng được co quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cho tại ngoại khi có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm: Biện pháp ngăn chặn này là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.