Hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh

Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có giá trị to lớn đối với toàn thể dân tộc, vậy bạn đã biết hoàn cảnh ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập chưa, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé

1. Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh:

Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Đây được nhiều người coi là bản tuyên ngôn. Đó là lần dựng nước thứ ba trong lịch sử Việt Nam, sau “Nam quốc sơn hà” ở thế kỷ XI và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi năm 1428.

Hồ Chí Minh (19/05/1890 – 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung; Làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Gia đình: Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Mẹ là Hoàng Thị Loan.

Trước khi tham gia hoạt động cách mạng, ông học chữ Hán, sau đó học tại trường Quốc học Huế, có thời gian dạy học tại trường Dục Thanh (Phan Thiết).

Ngày 5-6-1911 tại bến Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1941, Người về nước lãnh đạo phong trào cách mạng. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại cho hậu thế nhiều di sản văn học quý giá, xứng đáng là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đổi tên. Trong đó có những tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh,… đây cũng là những tên tuổi gắn liền với nhiều tác phẩm tiêu biểu, nổi tiếng trong sự nghiệp văn học của Người.

a. Quan điểm sáng tạo

Hồ Chí Minh chú trọng đến tính chân thực và tính dân tộc của văn học. Nhà văn hướng dẫn người viết miêu tả chân thực, hùng hồn hiện thực cuộc sống, giữ được cảm xúc chân thực; phải chú ý phát huy tính dân tộc và phải có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Điều này thể hiện rõ trong cả lối sống và văn chương của ông.

Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Trong đó có những bài chính luận giàu thực tiễn đời sống, sắc sảo về chính luận và tư tưởng, những truyện ngắn đặc sắc, hiện đại, hàng trăm bài thơ giàu chất nhân văn, yêu đời.

b. Phong cách nghệ thuật

Các tác phẩm của Hồ Chí Minh có phong cách đa dạng, thống nhất, kết hợp nhuần nhuyễn và sâu sắc mối quan hệ giữa chính trị và văn học, tư tưởng và nghệ thuật, truyền thống và hiện đại. Dù ở thể loại nào, các tác phẩm của ông đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị trường tồn.

Là một người có kiến thức sâu rộng, nhiều tác phẩm của ông không chỉ có ý nghĩa sâu sắc mà còn có giá trị nghệ thuật cao. Không chỉ thành công ở một đề tài hay một thể loại văn học cụ thể, Hồ Chí Minh còn có nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật thuộc nhiều thể loại khác nhau mà khó tác giả nào có được.

2. Mục đích sáng tác Tuyên Ngôn độc lập:

Chính thức tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn đã chặn đứng âm mưu của đế quốc chuẩn bị chiếm lại nước ta.

Tuyên bố tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta hơn 80 năm qua và tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Khẳng định ý chí của toàn dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.

3. Hoàn cảnh sáng tác của Bài Tuyên ngôn độc lập:

3.1. Mẫu 1 - Hoàn cảnh sáng tác của bài Tuyên ngôn độc lập:

Tháng 8 năm 1945, nhân sự kiện Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền, giành lại độc lập. Nền độc lập vừa giành lại có nguy cơ bị đe dọa bởi tình hình chính trị phức tạp.

Trên thế giới đã xảy ra những mâu thuẫn trong nội bộ phe Đồng minh giữa Vương quốc Anh và Pháp, Mỹ và Liên Xô. Theo ý kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam tại đại hội đảng toàn quốc ngày 15-8-1945, mâu thuẫn đó có thể dẫn đến "Anh Mỹ nhượng bộ Pháp. Để Pháp trở lại Đông Dương". Hơn nữa, Pháp dùng những thủ đoạn, dối trá để che mắt dư luận thế giới như Văn minh, Bảo hộ thuộc địa nhằm trở lại xâm lược nước ta. 

Trong nước, 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc lấy danh nghĩa giải giáp quân Nhật nhưng thực chất là mở đường cho Mỹ vào Đông Dương, còn quân Pháp ở miền Nam anh dũng yểm hộ vùng Đông Nam Bộ sau lưng. 

Trước tình hình đó, ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Ở 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn khai sinh nước Việt Nam trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào trong và ngoài nước.

3.2. Mẫu 2 - Hoàn cảnh sáng tác của bài Tuyên ngôn độc lập:

Ngày 19-8-1945, chính quyền ở kinh đô về tay nhân dân. Ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chiến khu cách mạng Việt Bắc về Hà Nội. Tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 5 vạn đồng bào. Bản Tuyên ngôn đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Nước Việt Nam độc lập còn rất non trẻ đang đứng trước sự dò xét của nhiều thế lực: Quốc dân đảng, đế quốc Mỹ, quân đội Anh, thực dân Pháp. Thực dân Pháp vẫn rêu rao luận điệu: Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp, nay phát xít Nhật đã thua nên Việt Nam phải thần phục Pháp. Vì vậy, bản tuyên ngôn không chỉ thông báo với đồng bào mà còn là bản luận chiến chống ngoại xâm và là lời khẳng định nền độc lập chính đáng của nước Việt Nam trước nhân dân thế giới.

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện chính luận nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm thể hiện ở bố cục chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, lập luận chặt chẽ, mạch lạc. Những yếu tố này mang lại cho văn bản sức mạnh của văn bản. Tuyên ngôn Độc lập là khuôn mẫu cho diễn ngôn chính trị. Tác phẩm được chia thành bốn phần:

Phần 1 – cơ sở lý luận của Tuyên ngôn: tác giả trích dẫn các tuyên bố của Hoa Kỳ và Pháp, hai bản tuyên ngôn nổi tiếng đã được cả thế giới công nhận. Sự mở đầu này mang lại sức mạnh cho Tuyên ngôn.

Phần 2 - bằng chứng xác thực: tố cáo tội ác của thực dân Pháp và vạch trần luận điệu cướp nước của Pháp.

Phần 3 - khẳng định và tuyên bố nền độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam. Tác giả khẳng định, chính dân tộc Việt Nam đã giành được nền độc lập ấy và sẽ bảo vệ đến cùng.

Phần 4 - tuyên bố và một lần nữa khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc.

Với lập luận chặt chẽ, logic chặt chẽ, ngắn gọn mà đầy sức thuyết phục, Tuyên ngôn Độc lập đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ lịch sử cao cả của mình.

3.3. Mẫu 3 - Hoàn cảnh sáng tác của bài Tuyên ngôn độc lập:

Hoàn cảnh lịch sử: Thực dân “núp bóng” sau lưng quân Đồng minh giải giáp quân Nhật và âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Thực dân Pháp lấy cớ Nhật đầu hàng nên Đông Dương thuộc Pháp

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (19-8-1945), 7 ngày sau, tức 26-8-1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Tại 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập và đọc ngày 2-9-1945 trước Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.

Tuyên bố trước toàn thể đồng bào trong nước và quốc tế về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân ở Việt Nam

Chính thức khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam

Tố cáo tội ác và sự dối trá của thực dân Pháp nhân danh “khai hóa”

Đập tan âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa của đế quốc thực dân

Khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

3.4. Mẫu 4 - Hoàn cảnh sáng tác của bài Tuyên ngôn độc lập:

Ngày 19-8-1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tại số nhà 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng vạn đồng bào, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tình hình nước ta lúc này hết sức phức tạp, bọn thực dân, đế quốc mượn danh nghĩa Đồng minh giải giáp Nhật đang âm mưu xâu xé Việt Nam, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm lược lần thứ hai. Chúng đưa ra chiêu bài rất dễ đánh lừa dư luận quốc tế: Pháp đã công khai làm Đông Dương, đây là xứ bảo hộ của Pháp bị Nhật chiếm, nay Nhật đầu hàng Đồng minh, Pháp đương nhiên có quyền trở lại Đông Dương, thay thế quân Nhật

    5 / 5 ( 1 bình chọn )