Tóm tắt câu hỏi:
Kính nhờ lụât sư trả lời giúp cháu một số thắc mắc: Bố cháu dừng xe máy ở bên trái đường, xe có bật đèn hiệu. Đoạn đường đó không có vạch kẻ đường phần lề đường. Khi đó bị một xe máy đụng người điều khiển xe máy 14 tuổ, đi tốc độ rất cao khoảng 80 km/h và có sử dụng bia rượu. Hiện người gây tại nạn không có thương tích nào đáng kể. Còn bố cháu đang điều trị ở bệnh viện rất tốn kém. Gia đình người gây tai nạn không tới chăm sóc hay hỗ trợ tiền để trị bệnh.
1, Vậy ở tình huống trên thì bên nào sai và bên nào phải bồi thường thiệt hại
2, Nếu bên người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của cơ quan công an nhưng không có điều kiện chi trả thì phải giải quyết thế nào. Nếu người ta không chịu bồi thường thì sao. Không lẽ người ta gây tai nạn mà không có tiền bồi thường thì gia đình cháu phải chịu hết tiền bệnh viện sao?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Vấn đề 1: Việc người thanh niên kia vi phạm các lỗi về đi quá tốc đô, chưa đủ tuổi điều khiển phương tiện và sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Đó là những lỗi trước mắt nhìn thấy, tuy nhiên cần phải dựa vào quá trình kiểm tra và khám nghiệm hiện trường để phát hiện ra ai đúng, ai sai trong trường hợp của bạn.
Vấn đề 2: Nếu trong trường hợp người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại thì trước mắt cần xác định mức độ gây thiệt hại thế nào, sự yêu cầu của nhà bạn về vấn đề thiệt hai đó ra sao. Theo quy định của “Bộ luật dân sự 2015” thì:
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
“Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Điều 606. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Điều 607. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm.
Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Như vậy, việc bồi thường thiệt hại sẽ phụ thuộc vào những yêu tố như trên, hơn nữa người gây thiệt hại là người 14 tuối, chính vì thế cha mẹ sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu người ta không bồi thường thiệt hại thì sẽ xử lý theo yêu cầu của Luật thi hành án dân sự.