Trong quá trình học tập, điểm là một trong những cơ sở để đánh giá năng lực phổ biến nhất. Sau khi làm bài kiểm tra hay thi cử, giáo viên, giảng viên sẽ chấm điểm và đưa ra những kết quả để các đối tượng tự nhận thức được năng lực và trình độ của mình. Các sinh viên, học dinh cũng có thể tự tham gia học và thi các chứng chỉ quốc tế hoặc trong nước, sau khi đã đạt được bằng cấp thì có thể làm đơn xin công nhận điểm để xin miễn học nhưng môn liên quan theo quy định của nhà trường. Vậy, đơn xin công nhận điểm được quy định như thế nào? Có nội dung ra sao? Bài viết dưới đây sẽ giúp mọi người tìm hiểu về mẫu biên bản này và hướng dẫn soạn thảo chi tiết nhất.
1. Đơn xin công nhận điểm là gì?
Đơn xin công nhận điểm là một mẫu đơn được sử dụng phổ biến và có vai trò quan trọng trong môi trường giáo dục. Mẫu đơn này là căn cứ để nhà trường xét duyệt các yêu cầu của sinh viên từ đó giúp sinh viên đạt được những mong muốn của mình. Đơn xin công nhận điểm được lập ra và được sinh viên sử dụng rất nhiều trong quá trình học tập của mình.
2. Đơn xin công nhận điểm để làm gì?
Phần điểm học phần là tổng điểm của tất cả điểm đánh giá bộ phận của học phần đó nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần của các môn sẽ được làm tròn đến một chữ số thập phân và được thành điểm chữ từ A đến D.
Mẫu đơn xin công nhận điểm học phần là mẫu đơn xin được lập ra để xin được công nhận điểm học phần. Mẫu đơn nêu rõ thông tin người làm đơn, thông tin học phần, nội dung công nhận điểm học phần,… Sau khi lập đơn cần có chữ ký xác nhận của thủ trưởng đơn vị quản lý và sinh viên làm đơn để biên bản có giá trị.
3. Đơn xin công nhận điểm:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——————–
ĐƠN XIN CÔNG NHẬN ĐIỂM
(MIỄN HỌC PHẦN)
Khi sinh viên có chứng chỉ Ngoại ngữ, Tin học, GDQP, GDTC
Kính gửi: Thầy/Cô …… Cố vấn học tập
Tôi tên là: …….. Mã số SV: …….
Lớp ……. Khóa ……..
Nay tôi làm đơn xin điểm M các học phần :……
1/……… Mã số HP ……..
2/……… Mã số HP ……..
3/…….. Mã số HP ……..
Lý do:
Có chứng chỉ …….
Nơi cấp Chứng chỉ ……..
Rất mong được sự chấp thuận của Quý Thầy/Cô.
……, ngày…tháng…năm….
CỐ VẤN HỌC TẬP
(Ký và ghi rõ họ tên)
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ QUẢN LÝ NGÀNH
(Ký và ghi rõ họ tên)
SINH VIÊN
( Ký và ghi rõ họ tên)
4. Hướng dẫn soạn thảo đơn xin công nhận điểm:
– Phần mở đầu:
+ Ghi đầy đủ các thông tin bao gồm Quốc hiệu, tiêu ngữ.
+ Tên biên bản cụ thể là đơn xin công nhận điểm M. ( Miễn học phần)
– Phần nội dung chính của biên bản:
+ Thông tin nơi tiếp nhận biên bản.
+ Thông tin của người làm đơn.
+ Trình bày nguyên nhân làm đơn.
+ Nội dung đơn công nhận điểm.
– Phần cuối biên bản:
+ Địa điểm và thời gian lập biên bản.
+ Ký và ghi rõ họ tên của cố vấn học tập.
+ Ký và ghi rõ họ tên của thủ trưởng đơn vị quản lý ngành.
+ Ký và ghi rõ họ tên sinh viên.
5. Một số vấn đề liên quan về học phần:
– Học phần là gì?
Theo khoản 1 Điều 3 Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ 2007 quy định về Học phần và tín chỉ có nội dung như sau:
“Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Kiến thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và được kết cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp từ nhiều môn học. Từng học phần phải được ký hiệu bằng một mã số riêng do trường quy định.”
Có hai loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
– Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy;
– Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hóa hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tùy ý để tích lũy đủ số học phần quy định cho mỗi chương trình.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Hiệu trưởng các trường quy định cụ thể số tiết, số giờ đối với từng học phần cho phù hợp với đặc điểm của trường.
Hiệu trưởng quy định việc tính số giờ giảng dạy của giảng viên cho các học phần trên cơ sở số giờ giảng dạy trên lớp, số giờ thực hành, thực tập, số giờ chuẩn bị khối lượng tự học cho sinh viên, đánh giá kết quả tự học của sinh viên và số giờ tiếp xúc sinh viên ngoài giờ lên lớp.
Như vậy, học phần theo quy chế đào tạo đại học là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Mỗi một học phần của sinh viên có thể kết hợp tổ hợp nhiều môn học tạo nên. Hoặc sẽ có sự kết hợp và thiết kế giáo trình, bài giảng để tạo thành một môn học mới. Điều này sẽ giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc đăng ký học phần khác nhau. Mỗi học phần sẽ có một mã kí tự khác nhau tùy vào sự phân chia của nhà trường.
– Cách tính điểm học phần:
Cách tính điểm đánh giá bộ phận, điểm học phần được quy định tại Điều 22 Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ ban hành kèm theo Quyết định 43/2007/QĐ-BGDĐT như sau:
1. Điểm đánh giá bộ phận và điểm thi kết thúc học phần được chấm theo thang điểm 10 (từ 0 đến 10), làm tròn đến một chữ số thập phân.
2. Điểm học phần là tổng điểm của tất cả các điểm đánh giá bộ phận của học phần nhân với trọng số tương ứng. Điểm học phần làm tròn đến một chữ số thập phân, sau đó được chuyển thành điểm chữ như sau:
a) Loại đạt: A (8,5 – 10) Giỏi
B (7,0 – 8,4) Khá
C (5,5 – 6,9) Trung bình
D (4,0 – 5,4) Trung bình yếu
b) Loại không đạt:
F (dưới 4,0) Kém
c) Đối với những học phần chưa đủ cơ sở để đưa vào tính điểm trung bình chung học kỳ, khi xếp mức đánh giá được sử dụng các ký hiệu sau:
I Chưa đủ dữ liệu đánh giá.
X Chưa nhận được kết quả thi.
d) Đối với những học phần được nhà trường cho phép chuyển điểm, khi xếp mức đánh giá được sử dụng ký hiệu R viết kèm với kết quả.
3. Việc xếp loại các mức điểm A, B, C, D, F được áp dụng cho các trường hợp sau đây:
a) Đối với những học phần mà sinh viên đã có đủ điểm đánh giá bộ phận, kể cả trường hợp bỏ học, bỏ kiểm tra hoặc bỏ thi không có lý do phải nhận điểm 0;
b) Chuyển đổi từ mức điểm I qua, sau khi đã có các kết quả đánh giá bộ phận mà trước đó sinh viên được giảng viên cho phép nợ;
c) Chuyển đổi từ các trường hợp X qua.
4. Việc xếp loại ở mức điểm F ngoài những trường hợp như đã nêu ở khoản 3 Điều này, còn áp dụng cho trường hợp sinh viên vi phạm nội quy thi, có quyết định phải nhận mức điểm F.
5. Việc xếp loại theo mức điểm I được áp dụng cho các trường hợp sau đây:
a) Trong thời gian học hoặc trong thời gian thi kết thúc học kỳ, sinh viên bị ốm hoặc tai nạn không thể dự kiểm tra hoặc thi, nhưng phải được trưởng khoa cho phép;
b) Sinh viên không thể dự kiểm tra bộ phận hoặc thi vì những lý do khách quan, được trưởng khoa chấp thuận.
Trừ các trường hợp đặc biệt do Hiệu trưởng quy định, trước khi bắt đầu học kỳ mới kế tiếp, sinh viên nhận mức điểm I phải trả xong các nội dung kiểm tra bộ phận còn nợ để được chuyển điểm. Trường hợp sinh viên chưa trả nợ và chưa chuyển điểm nhưng không rơi vào trường hợp bị buộc thôi học thì vẫn được học tiếp ở các học kỳ kế tiếp.
6. Việc xếp loại theo mức điểm X được áp dụng đối với những học phần mà phòng đào tạo của trường chưa nhận được báo cáo kết quả học tập của sinh viên từ khoa chuyển lên.
7. Ký hiệu R được áp dụng cho các trường hợp sau:
a) Điểm học phần được đánh giá ở các mức điểm A, B, C, D trong đợt đánh giá đầu học kỳ (nếu có) đối với một số học phần được phép thi sớm để giúp sinh viên học vượt.
b) Những học phần được công nhận kết quả, khi sinh viên chuyển từ trường khác đến hoặc chuyển đổi giữa các chương trình.
– Lợi ích của giáo dục và đào tạo theo học phần:
Việc giáo dục và đào tạo theo học phần đã đem đến rất nhiều lợi ích cho cả giáo viên và học sinh, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất: Phương thức đào tạo theo học phần tín chỉ lấy người học làm trung tâm trong quá trình dạy và học, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Thông qua đó giúp nâng cao chất lượng đào tạo hơn.
+ Thứ hai: Phương thức đào tạo theo học phần tín chỉ có độ mềm dẻo và linh hoạt về môn học. Sinh viên có thể tham khảo ý kiến của giảng viên hoặc cố vấn học tập để chọn ra những môn học phù hợp với mình, để hoàn thành những yêu cầu cho một văn bằng và để phục vụ cho nghề nghiệp trong tương lai của bản thân. Mặt khác, trong quá trình học sinh viên có thể dễ dàng thay đổi những môn chuyên ngành theo học khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu.
+ Thứ ba: Phương thức đào tạo theo học phần tín chỉ có độ mềm dẻo và linh hoạt về thời gian ra trường. Sinh viên được cấp bằng khi đã tích lũy được đủ số lượng tín chỉ do trường quy định. Do vậy, họ có thể hoàn thành những điều kiện để được cấp ằng tùy theo khả năng và nguồn lực (thời lực, tài lực, sức khỏe,…) của cá nhân.
+ Thứ tư: Phương thức đào tạo theo học phần tín chỉ sẽ đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo. Vì kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc chưa đạt một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, sinh viên không bị buộc phải quay lại học từ đầu tất cả các môn mà chỉ học lại riêng học phần chưa đạt.