Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước đã ban hành 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân đội nhân dân trong quân đội nhân dân nói riêng, nó được coi là văn kiện có tính nhân văn để người vi phạm nhận thức rõ sai lầm, khuyết điểm, sửa sai phấn đấu vươn lên; đồng thời thức tỉnh, giáo dục, răn đe, ngăn ngừa các quân nhân khác vi phạm theo đúng bản chất kỷ luật của Quân đội ta là tự giác, nghiêm minh.
Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân nhân quân đội nhân dân:
– Kỷ luật tự giác, nghiêm minh là một phẩm chất cao đẹp trong phẩm chất nhân cách Bộ đội Cụ Hồ, là truyền thống tốt đẹp được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện kỷ luật quân đội đó chính là cơ sở giáo dục, rèn luyện kỷ luật để xây dựng quân đội ta vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là công cụ sắc bén tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và nhân dân giao phó, làm cho quân đội ta thực sự là quân đội của dân, do dân và vì dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Và Bác cũng dạy: ”Phải lấy Dân làm gốc”.
– Nhận thấy được tầm quan trọng của kỷ luật đối với việc xây dựng quân nhân quân đội nhân dân, ngày 24 tháng 5 năm 1947, trong bối cảnh Hội nghị dân quân, tự vệ, du kích toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại Định Quán, Định Hoá, Bắc Kạn; Tổng quân uỷ Quân đội Quốc gia và dân quân (nay là Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp) đã công bố Sắc lệnh của Chính phủ ban hành Mười lời thề danh dự và Mười hai điều kỷ luật dân vận của đội viên dân quân, tự vệ và du kích.
– Tháng 6 năm 1947, Cục Chính trị – Quân đội Quốc gia và dân quân cho xuất bản tài liệu “44 câu hỏi về kháng chiến” trong đó công bố thêm một số văn kiện mới như Mười hai điều kỷ luật dân vận (hiện nay là 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân nhân quân đội nhân dân ). Qua đó khẳng định, mối quan hệ với nhân dân của quân nhân quân đội nhân dân là rất quan trọng, cần thiết phải mẫu mực.
– Mười hai (12) Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân nhân quân đội nhân dân hiện nay vẫn được Đảng, Nhà nước, đặc biệt là trong quân đội nhân dân Việt Nam vẫn được lưu giữa, truyền đạt và trở thành bài học quý báu cho các quân nhân. Mỗi quân nhân quân đội nhân dân đều phải học thuộc và khắc ghi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như rèn luyện đạo đức.
2. Nội dung 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân nhân quân đội nhân dân:
Một là, Không lấy cái kim, sợi chỉ của nhân dân:
Xuất phát từ đức tính tốt đẹp: ”Cần, kiệm, liêm, chính”, mỗi người quân nhân phải giữa cho bản thân lối sống lành mạnh, không lấy tài sản nếu nó không thuộc quyền sở hữu của bản thân. Lấy hình ảnh “cái kim, sợi chỉ” là những vật dụng có giá trị rất thấp để răn dạy người quân nhân dù bất cứ tài sản nào của nhân dân dù chỉ rất nhỏ nhưng cũng không được lấy, xin; không làm điều gì gây tổn hại tài sản của nhân dân.
Hai là, Mua bán phải công bằng, sòng phẳng:
Công bằng trong việc phải tạo nên sự ngang giá, trao đổi bằng giá trị, không phân biệt bán rẻ cho người này bán đắt cho người kia. Trong mua bán với nhân dân phải đảm bảo chữ tín, không vay nợ, mua thiếu, không kỳ kèo, phải tính toán rõ ràng. Đảm bảo người dân không phải chịu thiệt.
Ba là, Mượn cái gì của nhân dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất phải đền:
Lối sống khuôn phép, có trách nhiệm bảo quản những gì đã mượn của nhân dân. Lễ phép hỏi mượn, chỉ sử dụng khi có sự đồng của nhân dân. Luôn ý thức giữ gìn tài sản.
Bốn là, Đóng quân nhà dân không được làm phiền nhiễu nhân dân, phải giữ gìn nhà cửa sạch sẽ:
Khi nhận sự giúp đỡ, hỗ trợ của nhân dân phải biết khiêm tốn, không gây ảnh hưởng đến nhân dân. Đảm bảo vệ sinh môi trường nơi đóng quân tại nhà ở người dân gọn gàng, nề nếp.
Năm là, Phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách dân tộc tôn trọng tự do, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của nhân dân:
Xuất phát từ quyền được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam: ”Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng”. Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua các lễ nghi gắn liền với phong tục tập quán (là những chuẩn mực văn hóa có tính lịch sử và dân tộc). Do đó, tín ngưỡng, phong tục tập quán là những điều thiêng liêng văn hóa của mỗi người nên cần phải tự giác thực hiện tốt, không vi phạm làm ảnh hưởng đến chính sách dân tộc tốt đẹp.
Sáu là, Phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, kính già, yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ:
Tinh thần đoàn kết là sức mạnh vĩ đại. Nhân dân là lực lượng lớn trong xã hội. Do đó, đoàn kết với nhân dân là vũ khí giúp mỗi quân nhân nói riêng rèn luyện ý chí, đạo đức, giúp cho quân đội nhân dân vững mạnh. Có thái độ “Tiên học lễ …” kính trọng thưa gửi đối với người lớn; yêu thương, chăm sóc trẻ em, nhi đồng, thanh niên; đối xử đúng mực với phụ nữ.
Bảy là, Không doạ nạt, đánh mắng nhân dân:
Bảo vệ nhân dân là nhiệm vụ cao cả, đẹp đẽ của mỗi người quân nhân quân đội nhân dân. Không lấy sức mạnh được rèn luyện trong quân đội nhân dân để ức hiếp, dở thói côn đồ với nhân dân.
Tám là, Phải bảo vệ tính mạng, tài sản của tập thể và của Nhà nước:
Phải chuẩn bị mọi điều kiện để đảm bảo đến an toàn tính mạng và chăm lo đời sống cho nhân dân. Sẵn sàng phục vụ nhân dân không quản ngại khó khăn, nan. Tài sản của tập thể, của nhà nước là tài sản chung phục vụ đời sống của mọi người do đó, cần phải có những biện pháp triệt để giữ gìn, bảo quản tài sản.
Chín là, Phải đoàn kết, tôn trọng và ủng hộ các cơ quan dân, chính, đảng, các lực lượng vũ trang địa phương:
Cơ quan dân, chính phủ, đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang là các cơ quan trọng yếu, đứng đầu, là kim chỉ nam đưa đất nước đời sống nhân dân ngày càng phát triển. Do đó, phải luôn tin tưởng, đi theo chính sách của cơ quan dân, chính, các lực lượng vũ trang địa phương; đấu tranh, tố giác các hành vi gây ảnh hưởng xấu, có dấu hiệu thù địch các cơ quan này.
Mười là, Phải gương mẫu chấp hành mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước:
Quân nhân trong quân đội nhân dân là những người vinh dự đứng trong lực lượng nòng cốt của đất nước, luôn được sự tin tưởng của nhân dân. Gương mẫu là trách nhiệm, vinh dự, tiêu chí của người quân nhân. Do đó, quân nhân quân đội nhân dân cần phải chấp hành tự giác, nghiêm chỉnh các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước góp phần củng cố, tăng niềm tin vào Đảng, Nhà nước.
Mười một là, Phải tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nhân dân thực hiện mọi đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước:
Tinh thần trung với Đảng, hiếu với dân luôn và cần được quân nhân quân đội nhân dân thực hiện liên tục, thường xuyên thông qua công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt, làm theo đường lối, chính sách tốt đẹp của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Mười hai là, Phải giữ gìn bí mật và vận động nhân dân giữ bí mật của Nhà nước và quân đội:
“Giữ bí mật của Nhà nước là một bộ phận trong cuộc đấu tranh với địch”. Cũng như mọi công việc khác, việc phòng gian bảo mật cần phải dựa vào lòng yêu nước và lực lượng của quân nhân nói riêng. Cần thiết phải tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu thấu, để nhân dân giúp sức vào công việc này.
3. Xử lý vi phạm 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân của quân đội nhân dân trong quân đội nhân dân:
– Tùy vào mức độ vi phạm, mà khi quân nhân trong quân đội nhân dân vi phạm 12 Điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân có thể bị xử phạt như sau, từ mức độ nhẹ đến nặng:
+ Khiển trách (mức độ nhẹ nhất)
+ Cảnh cáo;
+ Hạ bậc lương;
+ Giáng cấp bậc quân hàm;
+ Giáng chức;
+ Cách chức;
+ Tước quân hàm sĩ quan;
+ Tước danh hiệu quân nhân (mức độ cao, nếu gây ảnh hưởng lớn về mặt quyền nhân thân, tài sản có thể xử lý theo quy định pháp luật về hình sự, hành chính, dân sự).