Đền Đô ở đâu? Đền Đô thờ ai? Kinh nghiệm đi lễ Đền Đô?

Đền Đô là khu di tích nổi tiếng được nhiều người biết đến, nếu bạn đang có ý định đến tham quan nơi này thì bài viết dưới đây là dành cho bạn, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé

1. Đền Đô ở đâu?

Đền Đô Hạ hay còn gọi là Cổ Pháp Điện hay đền thờ Lý Bát Đế, được xây dựng từ rất sớm vào thế kỷ XI trên khu đất phía đông nam hương Cổ Pháp thuộc địa phận làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay. Theo lời kể lại, xưa kia trước cổng chùa có rừng Báng và dòng Tiêu Tương chảy qua. Vì vậy, nơi đây hội tụ các nguyên khí, có thể là 8 đầu rồng, là nơi thích hợp để người dân hương khói trong tương lai.

Khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi về thăm quê, nhân dân làng Đình Bảng đã xây dựng một ngôi đình lớn để đón vua. Khi vua mất, vua Lý Thái Tông nối ngôi, cho sửa sang làm nơi thờ vua cha và cũng là nơi thờ các vua Lý sau khi mất. 

Ngày nay, ngôi chùa tọa lạc trên diện tích hơn 31.000m2, là kết quả của quá trình tôn tạo, mở rộng sau bao thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của chiến tranh. Dù đã bị phá hủy gần như hoàn toàn nhưng đền Đô vẫn giữ được hình dáng, kiến trúc ban đầu, là công trình kết hợp hài hòa giữa phong cách cung đình sang trọng và nghệ thuật dân gian gần gũi. 

Địa chỉ đền Đô Bắc Ninh: Đường Lý Thái Tổ, phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.

2. Đền Đô thờ ai?

Theo sử sách, tháng 2 năm 1010, sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn về quê Đình Bảng, cưỡi thuyền rồng đi thăm các trưởng lão và viếng lăng Thái Tổ. Dân làng dựng một ngôi đình lớn để đón vua. Sau khi ông mất, con là Lý Thái Tông lên ngôi.

Như vậy đền Đô được biết đến với tên gọi quen thuộc là ngôi đền của các vị vua triều Lý.

Trong một dịp về quê Đình Bảng mừng giỗ cha, ông đã sai người lập Đền Đô làm nơi thờ cha trên nền đình cũ để làm nơi đón khi ông trở về. Và đây cũng là nơi thờ các vị vua nhà Lý sau này. Ngày 3 tháng 3 năm 1030, ngôi chùa được khởi công xây dựng.

Sau này chùa được trùng tu nhiều lần qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Lần trùng tu, mở rộng lớn nhất là vào năm thứ 3 đời vua Lê Kính Tông, tức năm 1602, với quy mô 21 hạng mục công trình và bia ký ghi công đức các vua nhà Lý.

Năm 1952, thực dân Pháp sau khi xâm lược nước ta đã ném bom phá hủy hoàn toàn chùa. Năm 1989, ngôi chùa được khởi công xây dựng lại theo kiến trúc ban đầu. Đây là kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử đã dày công tìm hiểu những di vật, tư liệu còn sót lại của ngôi chùa. Về cơ bản, quần thể di tích đền Đô hiện nay vẫn giống với kiến trúc xưa.

3. Kiến trúc của Đền Đô:

Kiến trúc đền Đô là sự kế thừa của phong cách cung đình và dân gian. Hai phong cách kiến trúc này được kết hợp hài hòa với thiên nhiên tạo nên một không gian thoáng đãng và đẹp mắt. Đây là một dự án hời hợt nhưng không cứng nhắc. Quần thể di tích đền Đô tuy khá rộng nhưng được chia thành các khu riêng biệt mang đến cho du khách những cảm nhận khác nhau: Hậu cung trang nghiêm, chánh điện uy nghiêm, nhà nước thư thái, văn minh, yên tĩnh.

Ngoài ra, nơi đây còn hội tụ nghệ thuật kiến trúc độc đáo của Việt Nam như: nghệ thuật điêu khắc đá: voi, rồng, lân, ngựa; nghệ thuật chạm khắc gỗ: chạm lân, chạm hoa văn trang trí, chạm rồng. Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ và xây dựng hệ thống mái, cột đạt đến trình độ tinh xảo, đẹp mắt.

Tổng diện tích của khu di tích này là 31.250 m2, bao gồm 21 công trình lớn nhỏ, được chia thành hai khu vực nội thành và ngoại thành. Tất cả các công trình đều được xây dựng công phu, chạm khắc và sơn phết tỉ mỉ.

3.1. Khu vực bên trong Đền:

Khu đô thị có tổng diện tích 4.320 m2, được thiết kế theo phong cách “Nội công ngoại quốc”. Khu này bao gồm: Ngũ Long Môn, chánh điện, nhà chuyển tế, nhà bia. Ngũ Long Môn là cổng vào của nội thành, sở dĩ có tên như vậy vì trên hai cổng đều được chạm khắc hình tượng năm con rồng rất tinh xảo và sinh động. Trung tâm của nội điện là chánh điện. Trong chánh điện có Phương đình hay còn gọi là nhà vuông, nhà Tiền tế, Pháp đường cổ kính.

Phương Đình rộng 70 m2, xây 3 gian, 8 mái. Nhà Tiền tế có 7 phòng rộng 220 m2. Đây là nơi thờ vua Lý Thái Tổ, bên trái chính điện treo tấm biển Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, tương ứng với 214 năm trị vì của 8 vị vua nhà Lý. Bên phải là tấm biển đề bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế cư”. Chính giữa bàn thờ có tượng hai người mặc áo bào đen là binh lính thời Lý, được chạm khắc rất sinh động. Hai bên gần cửa có đôi ngựa bạch hồng làm bằng gỗ mít, có đủ yên, áo giáp, dây cương đồng, lục lạc.

Dinh thự kiểu Pháp cổ có 7 gian, rộng 180 m2. Đây là nơi đặt ngai vàng, bài vị và 8 vị vua của nhà Lý. Gian giữa thờ vua Lý Công Uẩn và Lý Thái Tông, ba gian bên trái thờ Lý Nhân Tông, Lý Huệ Tông, Lý Anh Tông, ba gian bên phải thờ Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Thần Tông. 

Đình được xây dựng theo kiểu chồng diêm, có 8 mái, 8 đao cong mềm mại, gồm nhà thờ, nhà để kiệu và nhà thờ ngựa. Phía đông chùa có nhà bia, nơi đặt Cổ Pháp Điện Tạo Bi. Tấm bia này do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn, khắc năm 1605, dài 17cm, rộng 103cm, cao 190cm. Tấm bia này ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền thờ và ghi công đức của các vị vua nhà Lý.

Đặc biệt, đền Đô còn sở hữu cuốn thư pháp gốm sứ Bát Tràng lớn nhất Việt Nam. Cuốn thư này nằm ở gian bên phải, rộng hơn 8m, cao 3,5m, chạm nổi chữ Hán, toàn bộ chữ được tráng men xanh Bát Tràng với diện tích khoảng 6m2. Bộ chữ này do một nhóm lớp Hán Nôm ở Hương Nam, Hà Nội sáng tạo, nét chữ do gia đình ông Phạm Xuân Hòa gắn.

3.2. Khu vực bên ngoài đền:

Khu ngoại thành gồm các công trình: Thủy đình, Văn chỉ, Võ ca, Nhà tế lễ, Nhà khách, Nhà kho, Miếu Vua Bà. Thủy Đình được xây dựng trên mặt hồ hình bán nguyệt, rộng 5 gian, 8 mái, 8 đao uốn cong. Đây là nơi các quan xưa ngồi xem múa rối nước. Hồ hình bán nguyệt thông với ao Cả trên, ao Cả dưới và sông Tiêu Tương cũ. Thời Pháp thuộc, ngôi chùa này được Ngân hàng Đông Dương chọn làm hình ảnh in trên tờ tiền năm tấc.

Nhà văn nằm bên trái nội thành, gồm 3 gian, rộng 100 m, kiến trúc theo kiểu chồng diêm. Đây là nơi thờ các vị quan có công với nhà Lý như Tô Hiến Thành, Lý Đạo Thành. Nhà võ nằm bên phải nội thành, kiến trúc giống nhà văn. Đây là nơi thờ các quan văn võ có công với nhà Lý như: Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, Đào Cam Mộc.

4. Gía vé vào đền Đô:

Hiện tại đền Đô hay đền thờ Lý Bát Đế không thu vé vào tham quan. Có lẽ đến với ngôi chùa nào cũng vậy, điều mà du khách không cần lo lắng đó là chi phí, vé tham quan hay các dịch vụ bên lề. Đền Đô cũng vậy, người đến mang bao lo toan, người ra đi lòng thanh thản.

5. Review trải nghiệm đi đền Đô:

Ngôi chùa cổ kính đã nhuốm màu thời gian, không gian thoáng đãng với hương thơm thoang thoảng trong gió. Trong không gian tĩnh mịch, ngôi chùa hiện lên uy nghiêm, gồm 2 khu vực chính ở nội thành và ngoại thành. Đại Nội bao gồm các công trình: Hậu cung - nơi đặt ngai và bài vị của 8 vị vua thời Lý; nhà chuyên bông gồm 8 phòng ghép; nhà bia, nhà ngựa... bên trái chánh điện là Miếu Vua Bà (Miếu Rồng) thờ Lý Chiêu Hoàng. Ngoài thành có Thủy Đình, Văn Chỉ, Võ Ca, Văn Miếu, Nhà Khách, Nhà Kho, Miếu Vua Bà. Đền còn thờ các vị thần, võ tướng thời Lý có công giúp vua dựng nước và giữ nước.

Cổng Ngũ Long Môn: Ngũ Long Môn là 5 con rồng đá được chạm khắc tinh xảo, ở giữa có sân rộng có lư hương, quay mặt ra đình Phương Đình. Nơi đây là nơi thờ vua Lý Thái Tổ quanh năm mây phủ. Bước qua cổng là sân đền, chính giữa là lư hương hướng ra đình Phương Đình, nơi có đền thờ vua Lý Thái Tổ luôn nghi ngút khói hương.

+ Nhà chuyền bồng: Nhà có 8 mái, 8 đao, gồm nhà chủ tế, nhà thờ kiệu, nhà thờ ngựa.

+ Nhà bia: Nằm ở phía Đông của chùa có Cổ Pháp Điện Tạo Bi, cao 190cm, rộng 103cm, được chạm khắc tinh xảo, bia có hình lưỡng long chầu nguyệt. Tấm bia do Tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn, khắc năm 1605, ghi công đức của các vua Lý, Lê trong việc xây dựng lại chùa.

+ Chiếu dời đô: Cuốn thư bằng gốm Bát Tràng lớn nhất Việt Nam nằm bên phải tiền đường, rộng hơn 8m, cao 3,5m, chạm nổi chữ Hán. Bên phải là bài thơ “Nam quốc sơn hà nam” của Lý Thường Kiệt, là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.

+ Thủy Đình: Thủy Đình gồm 5 gian, 8 mái, 8 đao cong làm bằng gỗ lim có chạm trổ hoa văn. Đình tọa lạc bên hồ bán nguyệt nối với ao Cả trên, ao Cả dưới, sông Tiêu Tương xưa, có cây cầu đá nối vào sân chính. Ngày xưa các quan chức sắc thường ngồi xem múa rối nước, hình ảnh này được Ngân hàng Đông Dương chọn làm hình in trên “đồng vàng”.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )