Cung tiền tệ là gì? Các khối tiền tệ và hàm cung tiền tệ?

Cung tiền tệ là tất cả tiền tệ và các công cụ thanh khoản khác trong nền kinh tế của một quốc gia vào ngày được đo lường. Các khối tiền tệ và hàm cung tiền tệ?

Trên thực tế thì để thì trường kinh tế hoạt động thì không thể nào không nhắc đến sự hoạt động của tiền tệ. Và số tiền được lưu thông trên thị trường sẽ bao gồm tiền dân giữ, tiền trong cơ quan doanh nghiệp ngoài ngân hàng và  tiền trong hệ thống ngân hàng. Vậy cung tiền tệ là gì? Các khối tiền tệ và hàm cung tiền tệ có nội dung ra sao?

1. Cung tiền tệ là gì?

Cung tiền là tất cả tiền tệ và các công cụ thanh khoản khác trong nền kinh tế của một quốc gia vào ngày được đo lường. Nguồn cung tiền gần như bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi có thể được sử dụng gần như dễ dàng như tiền mặt.

Các chính phủ phát hành tiền giấy và tiền xu thông qua một số sự kết hợp giữa các ngân hàng trung ương và kho bạc của họ. Các cơ quan quản lý ngân hàng ảnh hưởng đến nguồn cung tiền sẵn có cho công chúng thông qua các yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng về việc nắm giữ dự trữ, cách mở rộng tín dụng và các vấn đề tiền tệ khác.

Cung tiền là lượng tiền mặt hoặc tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế. Các thước đo cung tiền khác nhau cũng tính đến các khoản không dùng tiền mặt như tín dụng và các khoản cho vay. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ tin rằng việc tăng cung tiền, tất cả đều bằng nhau, sẽ dẫn đến lạm phát.

Các nhà kinh tế phân tích lượng cung tiền và xây dựng các chính sách xoay quanh nó thông qua việc kiểm soát lãi suất và tăng hoặc giảm lượng tiền luân chuyển trong nền kinh tế. Phân tích khu vực công và khu vực tư nhân được thực hiện do cung tiền có thể tác động đến mức giá, lạm phát và chu kỳ kinh doanh. Tại Hoa Kỳ, chính sách của Cục Dự trữ Liên bang là yếu tố quyết định quan trọng nhất đến lượng cung tiền. Lượng tiền cung ứng còn được gọi là lượng tiền dự trữ.

Trong kinh tế học, cung tiền là tất cả tiền mặt và tiền tệ đang lưu thông trong một quốc gia. Cung tiền của một quốc gia có ảnh hưởng đáng kể đến tình hình kinh tế vĩ mô của một quốc gia, đặc biệt là liên quan đến lãi suất, lạm phát và chu kỳ kinh doanh. Ở Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang xác định mức cung ứng tiền tệ. Trong số các trường phái kinh tế phân tích chặt chẽ vai trò của cung tiền đối với sự ổn định kinh tế là Chủ nghĩa Tiền tệ và Lý thuyết Chu kỳ Kinh doanh của Áo.

Ngân hàng trung ương quy định mức cung tiền trong một quốc gia. Thông qua chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể thực hiện các hành động tuân theo chính sách mở rộng hoặc điều chỉnh. Các chính sách mở rộng liên quan đến việc tăng cung tiền thông qua các biện pháp như hoạt động thị trường mở, nơi ngân hàng trung ương mua Kho bạc ngắn hạn bằng tiền mới được tạo ra, do đó bơm tiền vào lưu thông. Ngược lại, một chính sách co cụm sẽ liên quan đến việc bán Kho bạc, loại bỏ tiền lưu thông trong nền kinh tế.

Trong kinh tế vĩ mô, cung tiền (hay lượng tiền dự trữ) đề cập đến tổng khối lượng tiền mà công chúng nắm giữ tại một thời điểm cụ thể trong nền kinh tế. Có một số cách để định nghĩa "tiền", nhưng các thước đo tiêu chuẩn thường bao gồm tiền tệ lưu thông và tiền gửi không kỳ hạn (tài sản dễ dàng tiếp cận của người gửi tiền trên sổ sách của các tổ chức tài chính).

Ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia có thể sử dụng định nghĩa về những gì cấu thành tiền cho các mục đích của mình. Dữ liệu cung ứng tiền được ghi lại và công bố, thường là do chính phủ hoặc ngân hàng trung ương của quốc gia đó. Các nhà phân tích khu vực công và tư nhân theo dõi những thay đổi trong cung tiền vì tin rằng những thay đổi đó ảnh hưởng đến mức giá chứng khoán, lạm phát, tỷ giá hối đoái và chu kỳ kinh doanh.

Mối quan hệ giữa tiền và giá cả trong lịch sử gắn liền với lý thuyết lượng tiền. Có bằng chứng thực nghiệm rõ ràng về mối quan hệ trực tiếp giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát giá cả trong dài hạn, ít nhất là đối với sự gia tăng nhanh chóng lượng tiền trong nền kinh tế. Ví dụ, một quốc gia như Zimbabwe cung tiền của nó tăng cực kỳ nhanh chóng cũng chứng kiến ​​sự tăng giá cực kỳ nhanh chóng (siêu lạm phát). Đây là một trong những lý do giải thích cho việc dựa vào chính sách tiền tệ như một phương tiện kiểm soát lạm phát

2. Các khối tiền tệ và hàm cung tiền tệ:

Cung tiền là tổng số tiền - tiền mặt, tiền xu và số dư trong tài khoản ngân hàng - đang lưu thông. Cung tiền thường được định nghĩa là một nhóm tài sản an toàn mà các hộ gia đình và doanh nghiệp có thể sử dụng để thanh toán hoặc nắm giữ dưới dạng đầu tư ngắn hạn. Ví dụ, đơn vị tiền tệ và số dư của Hoa Kỳ được giữ trong tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm được bao gồm trong nhiều thước đo cung tiền. 

Có một số thước đo tiêu chuẩn về cung tiền, bao gồm cơ sở tiền tệ, M1 và M2.

- Cơ sở tiền tệ: tổng số tiền trong lưu thông và số dư dự trữ (tiền gửi của các ngân hàng và các tổ chức lưu ký khác trong tài khoản của họ tại Cục Dự trữ Liên bang).

- M1: tổng số tiền mà công chúng nắm giữ và tiền gửi giao dịch tại các tổ chức lưu ký (là các tổ chức tài chính thu được tiền chủ yếu thông qua tiền gửi từ công chúng, chẳng hạn như ngân hàng thương mại, hiệp hội tiết kiệm và cho vay, ngân hàng tiết kiệm và công đoàn tín dụng).

- M2: M1 cộng với tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn mệnh giá nhỏ (được phát hành với số tiền dưới 100.000 USD) và cổ phiếu quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ bán lẻ. Dữ liệu về tổng hợp tiền tệ được báo cáo trong bản phát hành thống kê H.3 của Cục Dự trữ Liên bang ("Dự trữ tổng hợp của các tổ chức lưu ký và cơ sở tiền tệ") và bản phát hành thống kê H.6 ("Các biện pháp dự trữ tiền").

Trong một số thời kỳ, các thước đo cung tiền thể hiện mối quan hệ khá chặt chẽ với các biến số kinh tế quan trọng như tổng sản phẩm quốc nội danh nghĩa (GDP) và mức giá. Dựa trên một phần các mối quan hệ này, một số nhà kinh tế - Milton Friedman là ví dụ nổi tiếng nhất - đã lập luận rằng cung tiền cung cấp thông tin quan trọng về diễn biến ngắn hạn cho nền kinh tế và xác định mức giá và lạm phát trong dài hạn. Các ngân hàng trung ương, bao gồm cả Cục Dự trữ Liên bang, đã đôi khi sử dụng các thước đo cung tiền như một hướng dẫn quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.

Cung tiền tăng thường làm giảm lãi suất, do đó, tạo ra nhiều đầu tư hơn và đưa nhiều tiền hơn vào tay người tiêu dùng, do đó kích thích chi tiêu. Các doanh nghiệp đáp ứng bằng cách đặt hàng nhiều nguyên liệu thô hơn và tăng sản lượng. Hoạt động kinh doanh gia tăng kéo theo nhu cầu về lao động. Điều ngược lại có thể xảy ra nếu cung tiền giảm hoặc khi tốc độ tăng trưởng của nó giảm.  Thay đổi cung tiền từ lâu đã được coi là nhân tố chính trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế vĩ mô và chu kỳ kinh doanh. Các trường phái kinh tế vĩ mô tập trung nhiều vào vai trò của cung tiền bao gồm Lý thuyết số lượng tiền, Chủ nghĩa tiền tệ của Irving Fisher và Lý thuyết chu kỳ kinh doanh của Áo. Trong lịch sử, việc đo lường mức cung tiền đã chỉ ra rằng tồn tại các mối quan hệ giữa nó với mức lạm phát và giá cả. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, các mối quan hệ này đã trở nên không ổn định, làm giảm độ tin cậy của chúng như một định hướng cho chính sách tiền tệ. Mặc dù các biện pháp cung ứng tiền vẫn được sử dụng rộng rãi, chúng là một trong những dữ liệu kinh tế đa dạng mà các nhà kinh tế và Cục Dự trữ Liên bang thu thập và xem xét.

Cách đo lường cung tiền tệ

Các loại tiền khác nhau trong cung tiền thường được phân loại là Ms, chẳng hạn như M0, M1, M2 và M3, tùy theo loại và quy mô của tài khoản mà công cụ này được lưu giữ. Không phải tất cả các cách phân loại đều được sử dụng rộng rãi và mỗi quốc gia có thể sử dụng các cách phân loại khác nhau. Lượng tiền cung ứng phản ánh các dạng thanh khoản khác nhau của mỗi loại tiền trong nền kinh tế. Nó được chia thành các loại khác nhau về tính thanh khoản hoặc khả năng chi tiêu.

Tại Hoa Kỳ, cung tiền được phân loại theo các tổng hợp tiền tệ khác nhau bao gồm M0, M1 và M2. Các chỉ số này được Cục Dự trữ Liên bang sử dụng để đo lường mức độ ảnh hưởng của các hoạt động thị trường mở đối với nền kinh tế. Cơ sở tiền tệ, hoặc M0, bằng tiền xu, giấy vật chất và dự trữ của ngân hàng trung ương. M1, thường là tổng hợp được sử dụng phổ biến nhất, bao gồm M0 ngoài tiền gửi không kỳ hạn và séc du lịch. Trong khi đó, M2, có thể được sử dụng như một chỉ báo cho lạm phát khi so sánh với GDP, bao gồm M1 bên cạnh tiền gửi tiết kiệm và thị phần tiền tệ.

Ví dụ, M1 còn được gọi là tiền hẹp và bao gồm tiền xu và tiền giấy đang lưu hành và các loại tiền tương đương khác có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt. M2 bao gồm M1 và thêm vào đó là tiền gửi có kỳ hạn ngắn trong ngân hàng và một số quỹ trên thị trường tiền tệ. M3 bao gồm M2 ngoài tiền gửi dài hạn. Tuy nhiên, M3 không còn được Cục Dự trữ Liên bang đưa vào báo cáo. MZM, hay tiền có kỳ hạn bằng không, là một thước đo bao gồm các tài sản tài chính có kỳ hạn bằng 0 và có thể hoàn trả ngay lập tức bằng mệnh giá. Cục Dự trữ Liên bang phụ thuộc rất nhiều vào dữ liệu MZM bởi vì tốc độ của nó là một chỉ báo đã được chứng minh về lạm phát.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )