Biện pháp tư pháp là gì? Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp? Các biện pháp tư pháp trong hình sự?
Ngày nay khi xã hội phát triển, con người không chỉ có nhu cầu về ăn, mặc, ở,.. mà còn có nhu cầu về giải trí, giao lưu dẫn tới sự mở rộng đa dạng các mối quan hệ xã hội. Điều đó góp phần đem đến những lợi ích, thành tựu về kinh tế, khoa học – kỹ thuật,… tuy nhiên, nó đồng thời mang lại những tiêu cực, lối sống cực đoan và kết quả là việc hình thành tội phạm ngày càng cao. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chế tài trong pháp luật hình sự nhằm kiểm soat và hạn chế tội phạm, trong đó bao gồm cả biện pháp tư pháp. Biện pháp tư pháp là một chế định quan trọng của luật hình sự, có vai trò không thể phủ nhận trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy cơ quan, tổ chức nào được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
1. Biện pháp tư pháp là gì?
Theo Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 không đưa ra định nghĩa về biện pháp tư pháp (BPTP), mà chỉ xác định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân phạm tội. Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các biện pháp tư pháp, lý luận và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp, có thể hiểu rằng, biện pháp tư pháp là một trong các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật Hình sự, do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với người phạm tội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay đối với pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm, nhằm thay thế, hộ trợ hình phạt, giáo dục, ngăn ngừa đối tượng tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội hoặc góp phần khắc phục thiệt hại, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại.
2. Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp
Theo quy định tại Điều 133 Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp như sau:
“Điều 133. Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp
1. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được giao nhiệm vụ bắt buộc chữa bệnh tâm thần có nhiệm vụ thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh cho người bị áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.”
Như vậy, theo quy định trên thì có hai cơ quan tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần và trường giáo dưỡng.
2.1. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tâm thần có nhiệm vụ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh cho người bị áp dụng biện pháp tư pháp.
Theo quy định tại Nghị định số 64/2011/NĐ-CP ngày 28-7-2011 của Chính phủ quy định về việc thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì các cơ quan tổ chức khám chữa bệnh tâm thần có trách nhiệm như sau: Cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần được Viện Kiểm sát hoặc Tòa án chỉ định có trách nhiệm tiếp nhận người bị bắt buộc chữa bệnh và hồ sơ kèm theo, lập biên bản giao nhận. Cơ quan có trách nhiệm đưa người vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh tâm thần phải thông báo ngay cho thân nhân người bị bắt buộc chữa bệnh biết, trường hợp người bị bắt buộc chữa bệnh không có thân nhân hoặc không xác định được thân nhân thì thông báo cho chính quyền địa phương nơi người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Theo đó:
– Viện giám định pháp y tâm thần Trung ương và Bệnh viện tâm thần Trung ương 1 (Thường Tín, Hà Nội) có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và điều trị những người bị bắt buộc chữa bệnh theo quy định của pháp luật ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực phía Bắc.
– Bệnh viện tâm thần Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng) có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và điều trị người bị bắt buộc chữa bệnh theo quy định của pháp luật ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực miền Trung, Tây Nguyên.
– Phân Viện giám định Pháp y tâm thần phía Nam và Bệnh viện tâm thần Trung ương 2 (Biên Hòa, Đồng Nai) có trách nhiệm tiếp nhận, quản lý và điều trị những người bị bắt buộc chữa bệnh theo quy định của pháp luật ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực phía Nam.
2.2. Trường giáo dưỡng
Căn cứ theo Nghị định số 33-CP của Chính phủ ban hành quy chế về trường giáo dưỡng thì: Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ thi hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ quản lý, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, dạy văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề và tổ chức lao động phù hợp với lứa tuổi nhằm giúp đỡ học sinh sửa chữa những vi phạm của mình, phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ để trở thành những công dân lương thiện, có ích cho xã hội.
Theo đó, đối với những người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa cần áp dụng hình phạt thì sẽ đưa vào trường giáo dưỡng, đây là biện pháp xử lý hành chính bắt buộc.
3. Các biện pháp tư pháp trong hình sự
Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015, các biện pháp tư pháp trong hình sự bao gồm:
– Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh
– Các biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Khôi phục lại tình trạng ban đầu; Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra
Hạn chế trong thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp
– Hạn chế trong áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Theo quy định tại Điều 47 của BLHS năm 2015, việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.
Theo Từ điển tiếng Việt, “vật” được hiểu là đồ vật, hiện vật.. là những vật thể thuộc thế giới vật chất, tồn tại khách quan và con người có thể nhận biết được bằng thị giác hay xúc giác. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay, quan niệm “vật, tiền” theo nghĩa vật chất thông thường không còn phù hợp nữa. Bởi lẽ, thực tế cho thấy, nhiều vụ án sử dụng công nghệ cao thực hiện tội phạm thì công cụ, phương tiện phạm tội là sản phẩm trí tuệ không phải là loại vật thông thường. Ví dụ, vụ án sử dụng phần mềm gián điệp để ăn cắp mật khẩu tài khoản ngân hàng tại Tây Ninh mà Cục Phòng, chống tội phạm công nghệ cao Bộ Công an vừa khởi tố vào đầu năm 2020 hoặc là các game được sử dụng vào tội đánh bạc trong vụ án đánh bạc với số lượng đặc biệt lớn đã được xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua là những trường hợp điển hình. Do đó, để đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cần sửa đổi Điều 47 BLHS năm 2015 theo hướng bổ sung thêm cụm từ “các sản phẩm khác do con người tạo ra có giá trị vật chất”.
Bên cạnh đó, mặc dù Điều 47 BLHS năm 2015 không quy định rõ, việc áp dụng BPTP được áp dụng trong trường hợp phạm tội do cố ý hay vô ý, nhưng căn cứ vào quy định “…công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội”, chúng tôi cho rằng, việc tịch thu công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội chỉ có thể được áp dụng với các trường hợp phạm tội do lỗi cố ý. Bởi lẽ, từ “dùng” phản ảnh hoạt động có ý thức của chủ thể (lỗi cố ý). Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cho thấy, trường hợp phạm tội do vô ý thì có áp dụng BPTP hay không vẫn là câu hỏi còn nhiều tranh cãi.
– Hạn chế trong trong việc áp dụng biện pháp tịch thu khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội
Đối với các tội có tính chiếm đoạt, tại phiên tòa nếu bị hại không yêu cầu trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại thì có tịch thu tài sản này không. Vấn đề này trước đây có hai quan điểm trái ngược nhau giữa tịch thu và không tịch thu tài sản đó. Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành công văn số 233/TANDTC-PC, ngày 1/10/2019, trao đổi nghiệp vụ, theo hướng không tịch thu với lý do là: theo Điều 194 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ sở hữu có quyền, tặng cho hay từ bỏ quyền sở hữu, do đó “trong trường hợp tại phiên tòa dù đã được Hội đồng xét xử giải thích quyền được đòi lại tài sản bị chiếm đoạt, yêu cầu bồi thường nhưng bị hại có ý kiến không yêu cầu bị cáo phải trả lại tài sản đó và cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thì Tòa án không tuyên tịch thu tài sản đó mà ghi nhận ý kiến của bị hại trong bản án”.
Mặc dù công văn của Tòa án nhân dân tối cao không phải là một hình thức của văn bản quy phạm pháp luật nhưng trong thực tế thì nó có giá trị bắt buộc đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Chúng tôi cho rằng, hướng dẫn này của Tòa án nhân dân tối cao đã góp phần tích cực đối với việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử của ngành tòa án. Tuy nhiên, xét ở góc độ hợp lý, cần phải cân nhắc thêm vấn đề này vì mấy lý do sau đây: thứ nhất, mặc dù quyền tặng cho, hay từ bỏ quyền sở hữu là quyền của chủ sở hữu trong lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên, nếu cho phép người phạm tội được hưởng lợi từ việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản thì việc làm này đã vô tình “khuyến khích” người phạm tội, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; thứ hai, nếu không tịch thu, tài sản trên có thể được sử dụng vào việc phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác sau này; thứ ba, nếu không tịch thu tài sản này sẽ làm giảm tính nghiêm khắc, răn đe của pháp luật hình sự, gây bất lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, tài sản nêu trên cần được tịch thu bổ sung ngân sách của Nhà nước.
– Hạn chế trong việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Theo quy định tại Điều 49 BLHS năm 2015, bắt buộc chữa bệnh được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy định tại Điều 21 BLHS, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
+ Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
+ Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
Như vậy, biện pháp bắt buộc chữa bệnh có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người đang chấp hành hình phạt tù trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm lại không có quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh.