Chống chỉ định là gì? Ý nghĩa và ví dụ chống chỉ định của thuốc?

Chống chỉ định là trường hợp cụ thể trong đó người bệnh không nên sử dụng thuốc, thủ thuật hoặc phẫu thuật vì các biện pháp điều trị này có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Chúng ta thường thấy chống chỉ định của thuốc, các loại phẫu thuật hay kỹ thuật chẩn đoán, điều trị và chăm sóc cũng có chống chỉ định.

1. Chống chỉ định là gì?

Chống chỉ định là gì? Chống chỉ định là bất cứ vấn đề gì như triệu chứng hoặc tình trạng y tế khiến người bệnh không được thực hiện điều trị hoặc loại kỹ thuật Y tế cụ thể do có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Ví dụ, người bệnh bị rối loạn chảy máu nên người này có chống chỉ định sử dụng aspirin do nếu điều trị bằng aspirin có thể gây chảy máu quá mức. Chống chỉ định gồm có hai loại:

+ Chống chỉ định tuyệt đối là trường hợp người bệnh tuyệt đối không được thực hiện điều trị hoặc kỹ thuật y tế do tình trạng bệnh lý. Ví dụ, trẻ em không được dùng aspirin do thuốc này có thể gây ra hội chứng Reye.

+ Chống chỉ định tương đối có nghĩa là nên thận trọng xem xét sử dụng thuốc hoặc kỹ thuật y tế cho người bệnh. Bác sĩ sẽ cân nhắc sử dụng nếu lợi ích lớn hơn rủi ro. Ví dụ, chụp X-quang cho sản phụ là chống chỉ định tương đối do nguy cơ tia X ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi đang phát triển, tuy nhiên bác sĩ sẽ phải thực hiện khi cần để chẩn đoán các vấn đề bệnh lý có ảnh hưởng đến cả mẹ lẫn thai nhi.

2. Các nội dung về chỉ định của thuốc:

Ngoài ra căn cứ theo quy định tại Điều 18 và Điều 20 Thông tư 01/2018/TT-BYT quy định: Chỉ định của thuốc phải tương ứng với công dụng, dạng bào chế, đường dùng của thuốc. Thông tin về chỉ định phải rõ ràng, cụ thể và phải nêu được các nội dung sau đây: - Mục đích sử dụng thuốc: ghi rõ mục đích sử dụng thuốc, như: điều trị, hỗ trợ điều trị, phòng (dự phòng), giảm triệu chứng. - Đối tượng sử dụng thuốc (nếu có): ghi rõ chỉ định hoặc giới hạn chỉ định cho từng nhóm đối tượng sử dụng nhất định, có thể phân loại theo nhóm tuổi hoặc lứa tuổi hoặc giới hạn nhóm tuổi cụ thể. - Các điều kiện bổ sung để sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả (nếu có). Ví dụ: trong quá trình điều trị, cần phải phối hợp với các thuốc hoặc phương pháp khác để tăng hiệu quả điều trị hoặc làm giảm tác dụng không mong muốn của thuốc. Chống chỉ định: - Thuốc có chống chỉ định thì phải ghi cụ thể các trường hợp không được dùng thuốc. - Thuốc có chống chỉ định ở trẻ em phải ghi rõ trẻ em trong độ tuổi cụ thể (tính theo tháng hoặc năm) hoặc nhóm người bệnh phù hợp khác (ví dụ theo giới tính, cân nặng) với từng chống chỉ định của thuốc. Như vậy nên để đảm bảo an toàn thì pháp luật đã quy định cụ thể đối với thuốc có chống chỉ định thì phải ghi cụ thể các trường hợp không được dùng thuốc. Thuốc có chống chỉ định ở trẻ em phải ghi rõ trẻ em trong độ tuổi cụ thể (tính theo tháng hoặc năm), hoặc các nhóm người bệnh phù hợp khác (ví dụ theo giới tính, cân nặng) với từng chống chỉ định của thuốc.
Quy định như vậy một phần là để tránh được các tác không mong muốn có liên quan đến lâm sàng là chỉ tiêu hướng tới bệnh nhân. Các tác dụng không mong muốn gián tiếp (ví dụ thay đổi nồng độ các chất chỉ điểm trong huyết thanh) thường được sử dụng, nhưng cũng giống như các chỉ tiêu gián tiếp về hiệu quả, cần có tương quan lý tưởng với các tác dụng không mong muốn hướng tới bệnh nhân. Các thử nghiệm lâm sàng được thiết kế cẩn thận để chứng minh hiệu quả vẫn có thể gặp khó khăn trong việc xác định các tác dụng không mong muốn nếu thời gian cần thiết để xuất hiện tác dụng không mong muốn dài hơn thời gian cần thiết mang lại lợi ích hoặc nếu tác dụng không mong muốn là hiếm gặp. Ví dụ, chất ức chế cyclooxygenase-2 (COX-2) giảm đau nhanh chóng, do đó hiệu quả của chúng có thể được thể hiện trong một nghiên cứu tương đối ngắn. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc nhồi máu cơ tim tăng lên khi sử dụng một số chất ức chế COX-2 trong một khoảng thời gian dài và không rõ ràng trong các thử nghiệm ngắn hơn, nhỏ hơn. Vì lý do này, và vì các thử nghiệm lâm sàng có thể loại trừ một số bệnh nhân nhóm phụ và có nguy cơ cao, các tác dụng không mong muốn có thể không được biết đến đầy đủ cho đến khi một loại thuốc được sử dụng rộng rãi sau nhiều năm.
Bên cạnh đó cũng để phù hợp với một mục tiêu phát triển thuốc là có sự khác biệt lớn giữa liều hiệu quả và liều gây ra các tác dụng không mong muốn. Sự khác biệt lớn được gọi là phạm vi điều trị rộng, hệ số điều trị, hoặc cửa sổ điều trị. Nếu phạm vi điều trị là hẹp (ví dụ, <2), các yếu tố thường không quan trọng về mặt lâm sàng (ví dụ, tương tác giữa thức ăn và thuốc, tương tác thuốc-thuốc, sai sót nhỏ trong liều lượng) có thể gây ra những tác động lâm sàng có hại. Ví dụ, warfarin có một phạm vi điều trị hẹp và tương tác với nhiều loại thuốc và thức ăn. Liều thuốc chống đông không đủ làm tăng nguy cơ biến chứng của các bệnh cần được điều trị bằng thuốc chống đông máu (ví dụ tăng nguy cơ đột quỵ trong rung tâm nhĩ), trong khi quá liều thuốc chống đông làm tăng nguy cơ chảy máu.

Chống chỉ định tên tiếng Anh là "Contraindiᴄation".

3. Ý nghĩa và ví dụ chống chỉ định của thuốc:

Một loại thuốc được chỉ định phụ thuộc vào sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ của nó. Khi đưa ra quyết định, bác sĩ lâm sàng thường cân nhắc các yếu tố có phần chủ quan, chẳng hạn như kinh nghiệm cá nhân, truyền miệng, người thực hành trước và ý kiến chuyên môn.
Số bệnh nhân cần được điều trị (NNT) ít mang tính chủ quan về những lợi ích có thể có của một loại thuốc (hoặc bất kỳ sự can thiệp nào khác). NNT là số bệnh nhân cần được điều trị để mang lại lợi ích cho một bệnh nhân. Ví dụ, hãy xem xét một loại thuốc làm giảm tỷ lệ tử vong của một bệnh cụ thể từ 10% xuống 5%, giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% (1 trong 20). Điều đó có nghĩa là 100 bệnh nhân, 90 người sẽ sống ngay cả khi không điều trị, và do đó sẽ không được hưởng lợi từ thuốc. Bên cạnh đó, 5 trong số 100 bệnh nhân sẽ chết mặc dù họ dùng thuốc và do đó cũng không có lợi. Chỉ có 5 trong 100 bệnh nhân (1 trong 20) được hưởng lợi từ việc dùng thuốc; Do đó, cần 20 bệnh nhân được điều trị để 1 bệnh nhân được hưởng lợi từ việc điều trị, và NNT là 20. NNT có thể được tính toán đơn giản là nghịch đảo của việc giảm nguy cơ tuyệt đối; nếu giảm nguy cơ tuyệt đối là 5% (0,05), NNT = 1 / 0,05 = 20. NNT cũng có thể được tính toán cho các tác dụng không mong muốn, trong trường hợp đó đôi khi nó được gọi là số người cần được điểu trị để xảy ra tác hại (NNH).
Quan trọng là NNT dựa trên sự thay đổi nguy cơ tuyệt đối; không thể tính được từ những thay đổi nguy cơ tương đối. Nguy cơ tương đối là tỷ lệ phần trăm của hai nguy cơ. Ví dụ, một loại thuốc giảm tỷ lệ tử vong từ 10% xuống 5% nghĩa là làm giảm tử vong tuyệt đối 5% nhưng giảm tỷ lệ tử vong tương đối là 50% (tức là tỷ lệ tử vong 5% chỉ ra rằng ít tử vong hơn 50% so với tỷ lệ tử vong 10%). Thông thường, lợi ích được báo cáo trong y văn là giảm nguy cơ tương đối bởi vì nhìn vào số liệu này sẽ thấy thuốc hiệu quả hơn so với giảm nguy cơ tuyệt đối (trong ví dụ trước, giảm 50% tử vong có vẻ tốt hơn giảm 5%). Ngược lại, các tác dụng không mong muốn thường được báo cáo theo nguy cơ tuyệt đối tăng bởi vì chúng tạo ra một loại thuốc an toàn hơn. Ví dụ, nếu thuốc tăng tỷ lệ xuất huyết từ 0,1% đến 1%, mức tăng này thường được báo cáo là 0,9% hơn là 1000%.
Khi NNT cân bằng với NNH, điều quan trọng là cân nhắc giữa lợi ích cụ thể và các nguy cơ. Ví dụ, một thuốc có nhiều tác hại hơn lợi ích vẫn có thể được kê đơn nếu các tác hại đó là nhỏ (ví dụ tác hại có thể hồi phục, nhẹ) và các lợi ích là lớn (ví dụ như ngăn ngừa tử vong hoặc phòng bệnh). Trong mọi trường hợp, sử dụng các chỉ tiêu hướng tới bệnh nhân là tốt nhất.
Dữ liệu về gen đang ngày càng được sử dụng để xác định các phân nhóm bệnh nhân nhạy cảm hơn với những lợi ích và tác dụng không mong muốn của một số loại thuốc. Ví dụ, ung thư vú có thể được xét nghiệm các chỉ dấu di truyền HER2 dự đoán đáp ứng với các loại thuốc hóa trị liệu nhất định. Bệnh nhân HIV / AIDS có thể được xét nghiệm với allele HLA-B * 57: 01, gen dự đoán quá mẫn với abacavir, làm giảm tỷ lệ phản ứng quá mẫn và do đó làm tăng NNH. Sự khác nhau về gen của các enzym chuyển hóa thuốc khác nhau giúp dự đoán bệnh nhân đáp ứng với thuốc như thế nào và cũng thường ảnh hưởng đến lợi ích, tác hại, hoặc cả hai.

Một số phương pháp điều trị có thể gây ra phản ứng không mong muốn hoặc nguy hiểm ở những người dễ bị dị ứng, huyết áp cao hoặc mang thai.

Ví dụ, isotretinoin là một loại thuốc dùng để điều trị mụn trứng cá và thuốc này cũng chống chỉ định tuyệt đối cho sản phụ do làm tăng nguy cơ thai nhi bị dị tật bẩm sinh. Một số thuốc chống sung huyết có chống chỉ định ở những người bị huyết áp cao và người bệnh nên tránh các thuốc này.

Ngoài ra, nhiều loại thuốc không nên được sử dụng cùng với nhau trên cùng một người bệnh. Chẳng hạn, một người đang dùng warfarin để làm loãng máu thì không nên dùng aspirin do đây cũng là thuốc làm loãng máu.

Để bảo đảm an toàn sức khỏe của mình, trước khi sử dụng bất cứ loại thuốc nào, thủ thuật nào trong điều trị bệnh bạn cũng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ, đặc biệt là những trường hợp: phụ nữ có thai, người mắc bệnh máu khó đông và một số bệnh mạn tính khác.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )