Chính sách kích cầu là gì? Những tác động của chính sách kích cầu

Chính sách kích cầu là hành động được thực hiện để kích thích nền kinh tế, thường là trong thời kỳ suy thoái, thông qua chi tiêu của chính phủ và giảm lãi suất và thuế. Những tác động của chính sách kích cầu?

1. Chính sách kích cầu là gì?

Chính sách kích cầu là hành động được thực hiện để kích thích nền kinh tế, thường là trong thời kỳ suy thoái, thông qua chi tiêu của chính phủ và giảm lãi suất và thuế. Thuật ngữ mồi bơm có nguồn gốc từ hoạt động của các máy bơm cũ - một van hút phải được mồi nước để máy bơm hoạt động bình thường.

Chính sách kích cầu giả định rằng nền kinh tế phải được mồi để hoạt động bình thường một lần nữa. Về vấn đề này, chi tiêu của chính phủ được cho là để kích thích chi tiêu tư nhân, do đó sẽ dẫn đến mở rộng kinh tế.

Chính sách kích cầu đề cập đến các bước được thực hiện để kích thích chi tiêu trong nền kinh tế trong hoặc sau khi suy thoái.

Nói chung, nó liên quan đến việc bơm một lượng nhỏ quỹ của chính phủ vào một nền kinh tế đang suy thoái để khuyến khích tăng trưởng.

Chính sách kích cầu là chi tiêu của chính phủ trong thời kỳ suy thoái với nỗ lực kích thích chi tiêu tư nhân và mở rộng kinh doanh và công nghiệp. Cụm từ này bắt nguồn từ hoạt động của một chiếc máy bơm kiểu cũ, trong đó van hút nhỏ bằng da phải được làm ẩm hoặc mồi bằng nước để nó hoạt động bình thường. Tổng thống Herbert Hoover bắt đầu sử dụng chính sách bơm tiền kinh tế vào năm 1932, khi ông thông qua dự luật thành lập Công ty Tài chính Tái thiết để thực hiện các khoản vay cho các ngân hàng, đường sắt và các ngành công nghiệp khác.

Trong thời kỳ Đại suy thoái, Tổng thống Franklin D. Roosevelt bị thuyết phục vào mùa thu năm 1933 rằng việc kích cầu là cần thiết để đạt được sự phục hồi kinh tế. Sau đó, thông qua Tổng công ty Tài chính Tái thiết, các cơ quan cứu trợ công việc, Cục Quản lý Công trình Công cộng và các tổ chức khác, chính phủ đã chi hàng tỷ đô la để điều chỉnh máy bơm. Các khoản chi tiêu này trung bình là 250 triệu đô la mỗi tháng vào năm 1934 và 1935 và khoảng 330 triệu đô la mỗi tháng vào năm 1936, nhưng chỉ khoảng 50 triệu đô la mỗi tháng vào cuối năm 1937. Cuộc suy thoái năm 1937 khiến chính quyền Roosevelt một lần nữa phải dùng đến việc kích cầu rộng rãi vào Năm 1938.

2. Những tác động của chính sách kích cầu:

Chính sách kích cầu liên quan đến việc đưa một lượng tương đối nhỏ quỹ của chính phủ vào một nền kinh tế đang suy thoái để thúc đẩy tăng trưởng. Điều này được thực hiện thông qua sự gia tăng sức mua của những người bị ảnh hưởng bởi việc rót vốn, với mục tiêu thúc đẩy nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cao hơn. Sự gia tăng nhu cầu thông qua mồi bơm có thể dẫn đến tăng lợi nhuận trong khu vực tư nhân, hỗ trợ cho sự phục hồi kinh tế nói chung. Chính sách kích cầu liên quan đến lý thuyết kinh tế Keynes, được đặt theo tên của nhà kinh tế nổi tiếng John Maynard Keynes, nói rằng sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, nhằm mục đích tăng tổng cầu, có thể dẫn đến sự thay đổi tích cực trong nền kinh tế.

Điều này dựa trên tính chất chu kỳ của tiền trong một nền kinh tế, trong đó chi tiêu của một người liên quan trực tiếp đến thu nhập của người khác và sự gia tăng thu nhập dẫn đến sự gia tăng chi tiêu sau đó. Trên thực tế thì chính sách kích cầu đã có sự tác động vô cùng to lớn đến nền kinh tế thị trường như sau:

2.1. Tác động tích cực:

- Chính sách kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng cạnh tranh và tăng tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường; giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động vốn và cho vay tín dụng của mình;

Một mặt không phải hạ thấp lãi suất huy động dễ gây giảm và biến động mạnh nguồn tiền gửi và huy động; mặt khác, mở rộng đầu ra nhờ không buộc phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường.

- Chính sách kích cầu đã góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại, cũng như tương lai. Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.

- Cuối cùng thì chính sách kích cầu được biết đến là những hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại quốc gia được tài trợ từ gói kích cầu nếu thực hiện có hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến việc tăng dòng vốn chảy vào và mở rộng thị trường đầu ra cho doanh nghiệp và nền kinh tế, từ đó trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

2.2. Tác động tiêu cực:

- Đối với Chính sách kích cầu thì nếu Chính phủ quá lạm dụng và sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ có thể gây ra một số hậu quả, Ví dụ như: đối với các dự án vay đầu tư có chất lượng thấp hoặc triển khai kém hay là các vấn đề liên quan đến giải ngân không đúng mục đích. Việc làm này sẽ làm thất thoát và lãng phí các nguồn vốn vay. Hoặc là có thể thiệt hại nhiều hơn đó chính là việc gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng "đầu cơ nóng" gây hệ quả xấu cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói chung.

- Chính sách kích cầu sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế nếu việc cho vay thiên về qui mô và thành tích việc này là góp phần níu kéo hay là duy trì cơ cấu kinh tế, đồng thời thì cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu và kém hiệu quả. Ngoài ra thì còn làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiệp và các khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các gói kích cầu.

Cụm từ "kích cầu" bắt nguồn từ việc Tổng thống Herbert Hoover thành lập Công ty Tài chính Tái thiết (RFC) vào năm 1932, được thiết kế để cho vay các ngân hàng và ngành công nghiệp. Điều này đã được tiến thêm một bước nữa vào năm 1933, khi Tổng thống Franklin Roosevelt cảm thấy rằng chính sách kích cầu sẽ là cách duy nhất để nền kinh tế phục hồi sau cuộc Đại suy thoái. Thông qua RFC và các tổ chức công trình công cộng khác, hàng tỷ đô la đã được chi để mồi máy bơm nhằm khuyến khích tăng trưởng kinh tế.  Cụm từ này hiếm khi được sử dụng trong các cuộc thảo luận về chính sách kinh tế sau

Thế chiến thứ hai, mặc dù các chương trình được phát triển và sử dụng kể từ đó, chẳng hạn như bảo hiểm thất nghiệp và cắt giảm thuế, có thể được coi là hình thức của máy bơm mồi tự động. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007, thuật ngữ này đã được sử dụng trở lại, do việc giảm lãi suất và chi tiêu cho cơ sở hạ tầng được coi là con đường tốt nhất để phục hồi kinh tế, cùng với các khoản giảm thuế được ban hành như một phần của Đạo luật Kích thích Kinh tế năm 2008. Bơm mồi trong nền kinh tế Nhật BảnTương tự như các hoạt động được sử dụng ở Hoa Kỳ, thủ tướng Nhật Bản, Shinzo Abe và nội các liên đới của ông đã thông qua gói kích thích vào năm 2015, tương đương 29,1 tỷ đô la, với hy vọng tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế đang căng thẳng. Mục tiêu là nâng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật Bản lên 0,7% vào cuối năm 2016.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )