Chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế là gì? Đặc điểm và phân loại

Chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế là sự đồng ý theo hợp đồng của nhà nhập khẩu về việc thanh toán số tiền đến hạn nhận hàng vào một ngày xác định trong tương lai. Đặc điểm và phân loại?

Để thành công trên thị trường toàn cầu ngày nay và giành được doanh số bán hàng trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, các nhà xuất khẩu phải cung cấp cho khách hàng của họ các điều khoản bán hàng hấp dẫn được hỗ trợ bởi các phương thức thanh toán thích hợp. Vì được thanh toán đầy đủ và đúng hạn là mục tiêu cuối cùng của mỗi lần bán hàng xuất khẩu, nên một phương thức thanh toán thích hợp phải được lựa chọn cẩn thận để giảm thiểu rủi ro thanh toán đồng thời đáp ứng nhu cầu của người mua. Bên cạnh đó thì pháp luật cũng quy định về vấn đề các doanh nghiệp thực hiện hoạt động chấp nhận giá chào bán của bên cũng cấp hàng nhập khẩu và đồng ý với tất cả các điều khoản và việc này được biết đến với tên gọi đó chính là chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế.

1. Chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế là gì?

Sự chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế là sự đồng ý theo hợp đồng của nhà nhập khẩu về việc thanh toán số tiền đến hạn nhận hàng vào một ngày xác định trong tương lai. Các chứng từ được xuất trình để được chấp nhận trong thương mại quốc tế. Người mua hàng hoá hoặc người nhập khẩu đồng ý trả tiền hối phiếu và viết "đã chấp nhận", hoặc từ ngữ tương tự biểu thị sự chấp nhận. Người mua trở thành người chấp nhận và có nghĩa vụ thanh toán trước ngày đáo hạn.

Sự chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế là sự đồng ý của người nhập khẩu về việc trả tiền cho người bán đối với hàng hóa nhận được vào một ngày xác định trong tương lai.Sau khi công ty nhập khẩu chấp nhận các chứng từ từ ngân hàng của mình, công ty đã cam kết thanh toán.Việc chấp nhận cho phép nhà nhập khẩu thu thập các chứng từ và xuất trình cho cảng vận chuyển để đổi lấy hàng hoá.

Giả sử một nhà sản xuất máy tính bảng và máy tính có tên Apple Inc. cần các linh kiện điện từ một nhà cung cấp ở Trung Quốc. Công ty Trung Quốc yêu cầu một dự thảo thời gian yêu cầu Apple, nhà nhập khẩu thanh toán trong 60 ngày kể từ ngày chấp nhận các tài liệu. Hàng hóa được vận chuyển đến cảng Hoa Kỳ và các chứng từ được gửi từ ngân hàng Trung Quốc đến ngân hàng của nhà nhập khẩu ở Hoa Kỳ Khi hàng hóa đến cảng, ngân hàng Hoa Kỳ xuất trình các chứng từ cho Apple (nhà nhập khẩu). Nhà nhập khẩu chấp nhận các chứng từ và đồng ý thanh toán hóa đơn trong vòng 60 ngày cho giá vốn hàng hóa. Với các tài liệu trong tay, Apple có thể đưa họ đến cảng và lấy hàng.

Trong hoạt động gia dịch buôn bán thì không thế nào không nhắc đến các hoạt động của bên cũng cấp hàng hóa sản xuất và được gọi chung là bên chào hàng và bên mua và tiếp nhận hàng hóa thì đươc biết đến là bên đặt hàng. Vậy vấn đề chào hàng được nhắc đến ở đây bao gồm các nội dung như thế nào? Do đó, cháo hàng và đặt hàng được biết đến nội dung cụ thể như sau:

- Thứ nhất, chào hàng hay còn được các nhà nghiên cứu gọi việc này với tên gọi khác đó chính là phát góa và trong tiếng anh nó còn được gọi là offer. Theo như tác giả tìm hiểu thì một lời đề nghị kí kết hợp đồng xuất phát từ phía người bán được xác định là nội dung của chào hàng. Do đó mà có thể phân biệt chào hàng khác với hỏi hàng ở chỗ hỏi hàng chỉ là đề nghị thiết lập quan hệ mua bán. Đồng thời thì trong buôn bán quốc tế người ta thường phân biệt hai loại chào hàng, đó là chào hàng tự do và chào hàng cố định. Trong đó:

+ Chào hàng tự do ở đây được xác định đó chính là loại chào hàng người bán không bị ràng buộc trách nhiệm với thư chào hàng, có nghĩa là người bán hàng không cam kết một cách dứt khoát nghĩa vụ cung cấp hàng hoá cho người mua. Loại chào hàng tự do này thường được gửi cho nhiều người mua tiềm năng chào bán một lô hàng, ai trả giá cao nhất thì bán, hoặc bán cho người mua nào mà người bán thấy có lợi hơn.

+ Chào hàng cố định được xác định khi người bán cam kết một cách dứt khoát nghĩa vụ cung cấp hàng hoá cho người mua trong một khoảng thời gian nhất định, và loại chào hàng này chỉ gửi cho một người.

- Thứ hai, đó chính là đặt hàng và nó còn được gọi với tên tiếng anh đó chĩnh là order. Trong hoạt động chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế thì đặt hàng được xác định ở đây chính là một hoạt động trái ngược với hoạt động chào hàng của các chủ thể trong hoạt động này. Do đó, trong hoạt động giao dịch buôn bán quốc tế nếu như thư chào hàng được các chủ thể dùng để thể hiện ý định bán hàng của người bán và được người bán kí phát cho các khách hàng của mình thì đơn đặt hàng thể hiện ý định muốn mua hàng của người mua. Việc làm này của các chủ thể được xác định đó là đề nghị từ phía người muốn mua hàng hoá.

Ngoài ra thì trong đơn đặt hàng người mua thường nêu cụ thể tên hàng hoá định mua và đề nghị người bán cung cấp hàng cho mình theo những điều kiện để tránh gây ra những rắc rối không đáng có trong quá trình đặt hàng của chủ thể này thì cần phải ghi chính xác những điều kiên này như: số lượng, phẩm chất, thời hạn giao hàng v.v. do mình tự đặt ra. Hợp đồng mua bán của bên mua và bên bán coi như đã được thành lập giữa bên mua và bên bán khi và chỉ khi người bán chấp nhận hoàn toàn đơn đặt hàng trong thời hạn quy định.

2. Đặc điểm và phân loại:

Từ các định nghĩa và nội dung liên quan đến chấp nhận trong trao đổi buôn bán quốc tế của các chủ thể thì có thể nhận thấy đặc điểm của hoạt động chấp nhận này có nội dung như sau:

- Thứ nhất, thỏa thuận chấp nhận là một phần của bộ sưu tập tài liệu trong quá trình thương mại quốc tế.

- Thứ hai, trong quá trình thu tiền chứng từ, ngân hàng của người xuất khẩu có trách nhiệm thu tiền từ ngân hàng của người nhập khẩu. Việc thanh toán được thực hiện sau khi các chứng từ, danh sách hàng hóa được vận chuyển, được xuất trình cho người mua (nhà nhập khẩu).

- Thứ ba, người mua có quyền lựa chọn chấp nhận các chứng từ và nếu được chấp nhận, phải thanh toán hóa đơn dựa trên các điều khoản của bộ sưu tập. Với các chứng từ trong tay, người mua đưa chúng đến cảng vận chuyển hoặc điểm nhập cảnh và xuất trình để sở hữu hàng hóa.

Đồng thời thì trong hoạt động chấp nhận trong giao dịch buôn bán quốc tế được xác định và phân thành hai loại thanh toán phổ biến với bộ sưu tập tài liệu:

- Tài liệu chống lại sự chấp nhận, hoặc Bộ sưu tập D / ANgười nhập khẩu hoặc người mua hàng hóa được ngân hàng của họ xuất trình chứng từ và phải đồng ý thanh toán theo các điều khoản, điều này thường được thực hiện thông qua hối phiếu có kỳ hạn. Hối phiếu có thời hạn là một hợp đồng hợp pháp, ràng buộc để thanh toán tiền hàng cho người bán (người xuất khẩu) vào một ngày xác định trong tương lai. Về cơ bản, hối phiếu có thời hạn là một lời hứa trả tiền, và để đổi lấy lời hứa đó, ngân hàng của người mua phát hành bộ chứng từ cho người mua hoặc người nhập khẩu. Nhà nhập khẩu có thể mang bộ chứng từ đến cảng vận chuyển và xuất trình để đổi lấy hàng hóa.

- Chứng từ chống lại việc thanh toán, hoặc Bộ sưu tập D / PChứng từ chống lại việc thanh toán khác với D / A ở chỗ nó yêu cầu nhà nhập khẩu thanh toán trước, nghĩa là việc thanh toán phải được thực hiện trước khi chứng từ được ngân hàng phát hành. D / P còn được gọi là Cash Against Documents hoặc Sight Draft vì nó được thanh toán ngay khi có chứng từ. Có nhiều phương thức tín dụng khác nhau được sử dụng để tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế. Một số nhà nhập khẩu có thể không có lịch sử tín dụng vững chắc hoặc có thể là một công ty mới. Nhà nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng của họ gia hạn tín dụng để nhà xuất khẩu có thể được thanh toán.

Sự chấp nhận của ngân hàng là một loại tín dụng trong đó ngân hàng chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn. Sự chấp nhận của ngân hàng cho phép công ty mua hàng hoá (nhà nhập khẩu) sử dụng tín dụng của ngân hàng để đảm bảo thanh toán cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng của nhà nhập khẩu sẽ phải chấp thuận việc gia hạn tín dụng dựa trên khả năng tài chính của nhà nhập khẩu. Do đó, sự chấp nhận của ngân hàng giúp giảm bớt rủi ro cho người bán (người xuất khẩu) rằng người nhập khẩu có thể không thanh toán hóa đơn.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )