Tội cố ý truyền HIV cho người khác là gì? Tội cố ý truyền HIV cho người khác trong Tiếng anh là gì? Cấu thành và mức hình phạt tội cố ý truyền HIV cho người khác? Phân biệt tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý lây truyền HIV cho người khác?
HIV là bệnh truyền nhiễm có tỉ lệ người mắc cao ở nước ta. Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến HIV đang là thách thức đối với Đảng và Nhà nước, từ đó, Luật Hình sự Việt Nam đã quy định một cách cụ thể về các tội như tội lây truyền HIV cho người khác, tội cố ý lây truyền HIV cho người khác hoặc lây truyền HIV là tình tiết tăng nặng trong một số tội phạm. Trong phạm vi bài viết dưới đây, tác giả tập trung phân tích quy định về “Tội cố ý lây truyền HIV” cho người khác.
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1. Tội cố ý truyền HIV cho người khác là gì?
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng anh: Human Immunedeficiency Virus (có nghĩa là vì rút gay suy giảm miễn dịch ở người). Nó là một loại vi rút có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS)- một tình trạng mà hệ miễn dịch của con người bị suy giảm dần dần, tạo điều kiện cho nhiễm trùng cơ hội và ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến tính mạng của người bị nhiễm.
Tội cố ý lây truyền HIV cho người khác là hành vi của người bị nhiễm HIV hoặc không bị nhiễm HIV có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện việc lây truyền vi rút HIV sang cơ thẻ của người khác, làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV, qua đó xâm phạm đến quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.
2. Tội cố ý truyền HIV cho người khác trong Tiếng anh là gì?
Tội cố ý truyền HIV cho người khác trong Tiếng anh là “Deliberate transmission of HIV to others”.
3. Cấu thành và mức hình phạt tội cố ý truyền HIV cho người khác?
Điều 149 Bộ luật hình sự quy định như sau:
Tội cố ý truyền HIV cho người khác
1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với người dưới 18 tuổi;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Lợi dụng nghề nghiệp;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Cấu thành tội phạm:
– Về mặt khách quan của tội phạm: hành vi khách quan của tội cố ý truyền HIV cho người khác được quy định là hành vi truyền HIV cho người khác. Trong đó, hành vi truyền HIV được hiểu là hành vi đưa HIV từ ngoài cơ thể người khác bằng cách thức bất kỳ.
– Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội. Người cố ý lây truyền HIV có thể là người bị nhiễm HIV (không thuộc chủ thể ở điều 148) hoặc không phải là người bị nhiễm HIV.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội được xác định là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình có thể làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV nhưng vì mong muốn hoặc vì chấp nhận hậu quả này nên đã thực hiện hành vi đó.
– Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội cố ý lây truyền HIV cho người khác là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.
Hình phạt:
Điều luật quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung:
Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Phạm tội có tổ chức: Là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và đòi hỏi phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm; Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức); Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án.
– Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân.
– Phạm tội đối với người dưới 18 tuổi
– Phạm tội đối với từ 02 người đến 05 người.
– Lợi dụng nghề nghiệp khi phạm tội
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Phạm tội đối với phụ nữ mà biết kà có thai
– Phạm tội đối với 06 người trở lên
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
– Phạm tội làm nạn nhân tự sát.
Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Phân biệt tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý lây truyền HIV cho người khác.
Sở dĩ đặt ra yêu cầu phân biệt tội lay truyền HIV cho người khác (Điều 148) và tội cố ý lây truyền HIV cho người khác (Điều 149) là do chúng có rất nhiều điểm tương đồng với nhau như:
Đầu tiên, tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác đều thuộc Chương XIV các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm ,danh dự của con người. Nghĩa là khách thể của hai tội danh này đều là quan hệ nhân thân của con người được pháp luật hình sư bảo vệ. Cụ thể hơn là quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Tiếp đó về mặt chủ quan của hai tội phạm, lỗi của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đều là lỗi cố ý. Điều này được thể hiện rất rõ ngay trong tên gọi, trong nội hàm điều luật quy định.
Điều 148 tội lây truyền HIV cho người khác: “người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác”
Điều 149 Tội cố ý truyền HIV cho người khác: “Người nào cố ý truyền HIV cho người khác”
Ngoài ra, khi thực hiện hành vi khách quan của tội lây truyền HIV cho người khác hoặc tội cố ý truyền HIV cho người khác thì chủ thể thực hiện hành vi đều hướng tới là khiến cho vi rút HIV xâm nhập vào cơ thể của người bị hại, có khả năng làm cho người bị hại nhiễm HIV. Tuy nhiên, cách thức thực hiện hành vi khách quan của tội lây truyền HIV cho người khác thường là thông qua quan hệ tình dục hoặc là qua đường máu. Còn cách thức thực hiện hành vi khách quan của tội cố ý truyền HIV cho người khác chủ yếu chỉ thông qua đường máu. Không chỉ vậy, còn có những đặc điểm khác có thể phân biệt hai tội danh này một cách rõ ràng hơn:
Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác là chủ thể đặc biệt- chỉ có thể là người bị nhiễm HIV đồng thời biết mình bị nhiễm HIV, cố ý thực hiện hành vi lây truyền HIV cho người khác và là người từ đủ 16 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội cố ý truyền HIV cho người khác không phải là chủ thể đặc biệt- có thể là người bị nhiễm HIV hoặc không bị nhiễm HIV (nhưng chủ yếu là người không bị nhiễm HIV), tin rằng mình không bị nhiễm HIV hoặc không biết mình bị nhiễm HIV, cố ý thực hiện hành vi truyền HIV cho người khá và là người từ đủ 16 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, về hành vi khách quan
Hành vi lây truyền HIV cho người khác chỉ có thể được thực hiện bởi người bị nhiễm HIV, chỉ họ mới có thể lây HIV cho người chưa bị nhiễm HIV. Lây truyền tức là lây bệnh từ cơ thể mình sang cơ thể của người khác, nguồn bệnh xuất phát từ bản thân người phạm tội, khiến cho nạn nhân cũng bị nhiễm bệnh.
Hành vi truyền HIV cho người khác chỉ có nghĩa là truyền và đưa vi rút HIV vào cơ thể người chưa bị nhiễm, nguồn bệnh không xuất phát từ bản thân người phạm tội mà xuất phát từ một người nhiễm HIV khác. Ví dụ, người phạm tội lấy máu của người bị nhiễm HIv truyền cho người khác.
Thứ ba, hậu quả của tội phạm:
hậu quả là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội lây truyền HIV cho người khác, tội phạm hàn thành khi nạn nhân nhiễm HIV.
Hiện nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu về hậu quả có phải là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội cố ý truyền HIV cho người khác hay không. Tuy vậy, hợp lý hơn vẫn là quan điểm tội danh này có cấu thành tội phạm hình thức, tội phạm hoàn thành khi có hành vi cố ý truyền HIV cho người khác, bất kể hậu quả nạn nhân có bị nhiễm HIv hay không. Hậu quả này chỉ có ý nghĩa khi Tòa án cân nhắc quyết định hình phạt.
Có sự khác biệt như vậy là do sự khác nhau trong nội hàm khái niệm “lây truyền” và “truyền”. “lây truyền” trọng tâm nằm ở từ lây, lây bệnh từ cơ thể người này sang cơ thể người khác. Tình trạng của cơ thể người khác phải trở nên giống với tình trạng của cơ thể người ngày thì mới được coi là đã bị lây bệnh. Như vậy, nạn nhân của hành vi lây truyền HIV phải trở thành người nhiễm HIV giống với với tình trạng của người phạm tội thì mới phù hợp với nội hàm khái niệm lây truyền. Chính vì vậy mà tội lây truyền HIV cho người khác có cấu thành tội phạm vật chất.
Ngược lại, khái niệm truyền chỉ có nghĩa là truyền tải, đưa vào trong cơ thể người khác. Cố ý truyền HIV cho người khác là cố tình thực hiện việc đưa vi rút HIV vào trong cơ thể người khác, và như vậy thì chỉ cần thực hiện xong hành vi là tội phạm đã hoàn thành, không cần biết nạn nhân có bị nhiễm HIV hay không. Chính vì vậy mà tội cố ý truyền HIV cho người khác có cấu thành tội phạm hình thức.