Các quốc gia giữ vai trò trụ cột trong chiến tranh chống phát xít?

Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến lớn nhất và nguy hiểm nhất trong lịch sử, liên quan đến hơn 30 quốc gia. Cuộc chiến kéo dài sáu năm đẫm máu cho đến khi quân Đồng minh đánh bại Đức Quốc xã và Nhật Bản vào năm 1945. Vậy các quốc gia giữ vai trò trụ cột trong chiến tranh chống phát xít là các quốc gia nào?

1. Chiến tranh chống phát xít là gì?

Chủ nghĩa phát xít là một phong trào chính trị quần chúng nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa quân phiệt và uy quyền tối cao của cả quốc gia và nhà lãnh đạo duy nhất, mạnh mẽ đối với từng công dân. Đây cũng là nguyên nhân khiến Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ trên toàn cầu kéo dài từ năm 1939 đến năm 1945. 

Sự bất ổn gây ra ở châu Âu sau Thế chiến thứ nhất đã góp phần vào sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai. Hiệp ước Versailles được ký năm 1919 đã đẩy nước Đức vào một cuộc khủng hoảng kinh tế, khi họ được lệnh phải trả tiền bồi thường cho các quốc gia mà họ đã xâm chiếm trước đó. Điều này đã nhường chỗ cho Đảng Quốc xã dưới thời Adolf Hitler tận dụng môi trường chính trị và nắm quyền.

Chiến tranh chống phát xít bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 và kết thúc vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Ngày kỷ niệm chính thức kết thúc chiến tranh hiện nay được gọi là Ngày VJ ở Mỹ, viết tắt của Victory over Japan .

Tại Vương quốc Anh và nhiều quốc gia Châu Âu khác, Ngày VE được tổ chức vào ngày 8 tháng 5, vì đó là ngày Đức đầu hàng. Nó là viết tắt của Victory in Europe Day .

Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu ở Châu Âu vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, khi Đức xâm lược Ba Lan. Anh và Pháp phản ứng bằng cách tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9. Cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức bắt đầu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, với Chiến dịch Barbarossa, cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô. chiến trận ở Thái Bình Dương bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 năm 1941, khi Nhật Bản tấn công căn cứ hải quân của Mỹ tại Trân Châu Cảng và các cơ sở quân sự khác của Mỹ, Hà Lan và Anh trên khắp Châu Á.

Trên cơ sở đó, cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít là chống lại các hệ tư tưởng, nhóm và các cá nhân theo chủ nghĩa phát xít.

2. Những quốc gia nào đã tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai?

Chiến tranh thế giới thứ 2 là cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử loài người, khiến khoảng 50.000.000 người thiệt mạng. Đó là một sự kiện lớn bao gồm hầu hết mọi quốc gia ở Châu Âu cũng như nhiều quốc gia khác từ khắp nơi trên thế giới. Mọi chuyện bắt đầu với việc Đức xâm lược Ba Lan, cả Pháp và Anh đều phản ứng bằng cách tuyên chiến với Đức. Sau đó, vấn đề chỉ là thời gian đối với các quốc gia khác chọn một bên, hoặc bị buộc phải tham gia. Ý và Nhật đứng về phía Đức, trong khi Mỹ và sau này là Liên Xô đều quyết định gây chiến với Pháp và Anh. Hai nhóm quốc gia này cùng với một số quốc gia yếu hơn về mặt lịch sử sau đó hình thành hai phe đối lập chiến đấu với nhau trong nhiều năm tới.

3. Những quốc gia giữ vai trò trụ cột trong Chiến tranh chống Phát xít?

Những quốc gia tham gia giữ vai trò trụ cột trong chiến tranh chống Phát xít là: Anh, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Liên Xô, Pháp, Trung Quốc. Những quốc gia này  được xem là quan trọng nhất trong lực lượng Đồng Minh.

Các quốc gia Khối thịnh vượng chung cũng là Đồng minh chủ chốt trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai bao gồm Úc, Canada và New Zealand.

Các quốc gia trong Đế quốc Anh lúc bấy giờ đã chiến đấu cùng một phe để chống lại Phát xít. Trong khi đó, trên mặt trận Châu Á, Ấn Độ đã đóng góp đội quân tình nguyện lớn nhất trong lịch sử vào cuộc chiến để chiến đấu cho quân Đồng minh trên các mặt trận khác nhau ở Châu Phi, Châu Âu và Châu Á.

Nhiều quốc gia ở Châu Phi là một phần của Đế quốc Anh vào thời điểm đó, chẳng hạn như Sierra Leone, Gambia, Nigeria, Nam Phi và Botswana. Trong đó, hầu hết các quốc gia này là thuộc địa, không có lựa chọn nào khác ngoài việc tham gia vào cuộc xung đột. Hơn một triệu quân đội châu Phi đã chiến đấu trong Thế chiến thứ hai.

Các nhà sử học tin rằng nếu không có sự hỗ trợ của quân đội Khối thịnh vượng chung này, quân Đồng minh đã không thể chiến thắng trong cuộc chiến.

4. Những quốc gia nào là các cường quốc phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai?

Các cường quốc phe Trục mà quân Đồng minh đã chiến đấu chống lại bao gồm:

– Nước Đức

– Nước Ý (Italy)

– Nhật Bản

Các quốc gia này đã thành lập Hiệp ước ba bên. Sau đó, họ được tham gia bởi các quốc gia khác như Hungary, Romania, Slovakia, Bulgaria và Nam Tư, những người đều muốn được bảo vệ khỏi quân đội Nga.

5. Những bước ngoặt chiến lược trong Chiến tranh chống chủ nghĩa Phát xít:

5.1. Anh và Pháp tuyên chiến:

1939 – Để đối phó với cuộc xâm lược Ba Lan của Hitler, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Điều này khiến Hitler quá tự tin ngạc nhiên và chuyển hướng kế hoạch lớn của ông ta khỏi lộ trình đã định bằng cách mở một mặt trận chiến tranh thứ hai.

Kế hoạch ban đầu của Hitler là chiếm Ba Lan, sau đó là Nga và với nguồn tài nguyên thiên nhiên vô tận của Nga trong tầm kiểm soát của hắn, để chiếm phần còn lại của thế giới trong khi chỉ có một mặt trận chiến tranh tại một thời điểm.

Hitler đã khắc phục phần nào sự chuyển hướng này bằng cách chiếm đóng Pháp vào giữa năm 1940, nhưng mặt trận thứ 2 vẫn tồn tại trong suốt cuộc chiến và khiến Đức không thể thực hiện chiến lược theo nguyên tắc chính của chiến tranh, nguyên tắc tập trung nỗ lực .

5.2. Trận chiến nước Anh:

Mùa hè năm 1940 – Trong nỗ lực “đóng cửa” mặt trận phía Tây và đưa kế hoạch lớn của mình trở lại lộ trình ban đầu, Hitler nhanh chóng chiếm đóng nước Pháp trong một cuộc xâm lược Blitzkrieg. Sau đó, anh ta tiếp tục với một nỗ lực không chuẩn bị trước để đánh bại Anh trong một chiến dịch không quân cho phép xâm lược hòn đảo của Anh.

Không quân Đức, được xây dựng chủ yếu để hỗ trợ trên không chiến thuật lớn cho lực lượng mặt đất của Đức, đã phải chịu đựng rất nhiều do thiếu máy bay ném bom hạng nặng và tầm bay ngắn của các máy bay chiến đấu trong Trận chiến nước Anh. Chiến đấu toàn bộ trận chiến trên nước Anh cũng có nghĩa là trong khi đối với Luftwaffe, mỗi chiếc máy bay bị mất có nghĩa là mất đi một phi hành đoàn được đào tạo, nhiều phi công Anh bị bắn rơi đã có thể trở lại làm nhiệm vụ và tiếp tục chiến đấu, vì vậy với số lượng máy bay bị bắn rơi bằng nhau, Luftwaffe có nhiều hơn tổn thất trong các phi công được đào tạo. Lực lượng Không quân Hoàng gia nhỏ hơn ban đầu thua trận trước Luftwaffe mạnh hơn. Điều này đã thay đổi khi giữa trận chiến, Hitler ra lệnh thay đổi mục tiêu nỗ lực của Luftwaffe từ tiêu diệt Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh sang ném bom khủng bố London. Sai lầm lớn này và các vấn đề khác của Luftwaffe đã đề cập ở trên, cho phép Lực lượng Không quân Hoàng gia phục hồi, tăng tỷ lệ tổn thất của Luftwaffe trong khi vẫn duy trì lực lượng của mình và giành chiến thắng trong trận chiến nước Anh. Mặt trận phía tây vẫn “mở” và hoạt động.

5.3 Trận chiến Mátxcơva:

Vào giữa năm 1941, mặc dù vẫn còn mặt trận phía Tây, Hitler đã quay trở lại phía Đông, để đạt được mục tiêu hàng đầu mong muốn từ lâu của mình là xâm lược và chiếm đóng nước Nga, lúc đó cũng đang chuẩn bị quân đội khổng lồ của mình để tấn công phủ đầu chống lại ông ta.

Bất chấp nhiều năm chuẩn bị cho mục tiêu đã tuyên bố này, quân đội Đức đơn giản là không chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện trong điều kiện khắc nghiệt của mùa đông nước Nga. Do đó, và hoàn toàn tin tưởng vào thành công của mình, Hitler và các tướng lĩnh của ông ta đã đánh cược MỌI THỨ vào khả năng của quân đội Đức trong việc đánh bại nước Nga trước mùa đông.

Điều gì đã xảy ra, đó là quân Đức đã hoàn toàn bất ngờ bắt được quân Nga, nhưng điều đó vẫn chưa đủ.

Theo lệnh trực tiếp của Stalin, tình báo Nga đã nỗ lực rất nhiều để liên tục theo dõi bất kỳ sự chuẩn bị nào của quân đội Đức để trang bị cho mình trong điều kiện khắc nghiệt của mùa đông nước Nga, dấu hiệu cảnh báo rõ ràng nhất về một cuộc tấn công sắp tới của quân Đức. Không có sự chuẩn bị nào như vậy, và vì không thể tin rằng Hitler sẽ thực hiện một canh bạc hoang dã như vậy là xâm lược nước Nga mà không chuẩn bị cho mùa đông, nên Stalin đã bác bỏ tất cả những cảnh báo mà ông nhận được từ tình báo của mình rằng Đức sẽ tấn công.

Nhờ sự bất ngờ hoàn toàn này, quân đội Đức xâm lược đã bắt được quân đội Nga ở một vị trí rất tồi tệ. Tổn thất của Nga về người và thiết bị là rất lớn, họ không chỉ mất toàn bộ lãnh thổ rộng lớn giữa Ba Lan và Moscow, mà còn gần như toàn bộ lực lượng quân sự ở đó.

Đội quân tiến công của Đức, được hỗ trợ bởi sự hỗ trợ trên không chiến thuật hiệu quả của Luftwaffe, lực lượng thống trị bầu trời phía trên, đã tiến thẳng đến Moscow, nhưng tại đó và sau đó, vào mùa đông khắc nghiệt cuối năm 1941, quân đội Đức đã cạn kiệt cả về thời gian và lực lượng. .

Nó đã kiệt sức và căng ra đến giới hạn, và đã phải chịu đựng rất nhiều trong mùa đông, khi nó bị phản công ồ ạt gần Mátxcơva bởi quân tiếp viện mới của Nga được đưa đến từ phía bên kia của nước Nga, từ Siberia và Viễn Đông. Những lực lượng mới này được trang bị hoàn hảo cho điều kiện mùa đông khắc nghiệt đã ngăn chặn bước tiến của quân Đức và thậm chí đẩy lùi quân Đức. Moscow được cứu, quân Đức bị chặn đứng, và điều đó đánh dấu giới hạn mà quân đội Đức có thể đạt được ở mặt trận phía đông. Họ đã có những chiến thắng vang dội ở Nga, nhưng nước Nga, với nguồn tài nguyên và lãnh thổ vô tận cùng với mùa đông khắc nghiệt và con người, là quá sức đối với họ. Khi mùa đông trôi qua, quân Đức lại tiến sâu và xa, nhưng không theo hướng Mátxcơva, và họ không thể đánh bại Nga được nữa.

5.4. Trân Châu Cảng:

Ngày 7 tháng 12 năm 1941 – Cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản buộc Hoa Kỳ phải tham chiến cùng lúc với việc Hitler bị chặn lại gần Moscow. Kể từ đó, kết quả cuối cùng của cuộc chiến là không thể tránh khỏi. Nó chỉ là một vấn đề thời gian.

Đối với Nhật Bản, ở Trân Châu Cảng, họ mới bắt đầu một cuộc chiến mà họ không thể giành chiến thắng. Đô đốc Yamamoto, nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất của họ, đã cảnh báo họ về điều đó, nhưng giới lãnh đạo quân phiệt cực đoan của Nhật Bản từ chối xem xét các lựa chọn khác.

Tháng 6 năm 1942 – Chỉ sáu tháng sau trận Trân Châu Cảng, ngay cả trước khi tiềm năng chiến tranh của Hoa Kỳ được chuyển sang các hạm đội mới rộng lớn, Hải quân Nhật Bản đã mất lực lượng tàu sân bay trong trận chiến Midway, cùng với đó là ưu thế của họ ở Thái Bình Dương và Nhật Bản sáng kiến.

5.5. Stalingrad và Kursk:

Trong hai mùa hè tiếp theo năm 1942 và 1943, Hitler lại tấn công vào Nga với tất cả lực lượng mà quân đội của ông ta vẫn có, nhưng trong cả hai trường hợp, các lực lượng tiến công của ông ta trước tiên đều bị chặn đứng bởi sự giao tranh ác liệt của các tuyến phòng thủ Nga, và sau đó bị đánh bại nặng nề với số lượng lớn. những đợt phản công gây cho quân Đức những tổn thất to lớn mà ở giai đoạn đó không gì có thể thay thế được.

Sau hai trận đại chiến đẫm máu này, quân đội Nga đã giành được thế chủ động và chuyển từ phòng thủ sang tấn công, một cuộc tấn công đã đẩy lùi quân Đức đến tận Berlin.

5.6. Đô đốc Max Horton nhận lệnh:

Tháng 11 năm 1942 – Với tư cách là chỉ huy mới của lực lượng đồng minh ở Bắc Đại Tây Dương, Đô đốc Horton, cựu thuyền trưởng tàu ngầm và chỉ huy lực lượng tàu ngầm Anh, đã dạy cho lực lượng không quân và hải quân dưới quyền chỉ huy của ông cách chiến đấu chống lại tàu ngầm U-boat của Đức hiệu quả hơn nhiều so với trước đây.

Sự khác biệt là đáng kể. Sau một thời gian huấn luyện và chuẩn bị, các đoàn tàu hộ tống ở Bắc Đại Tây Dương không còn cố gắng tránh giao tranh với “bầy sói” tàu ngầm Đức. Bây giờ họ đã sẵn sàng để gặp họ và đánh chìm họ. Sau một số cuộc giao chiến chết người, Đô đốc Doenitz, chỉ huy lực lượng tàu ngầm Đức, đã ra lệnh cho tất cả các tàu ngầm của mình quay trở lại căn cứ cho đến khi một chiến thuật mới được phát triển.

Những kẻ đi săn trở thành kẻ bị săn đuổi, và con đường biển được mở ra để di chuyển hàng loạt sức mạnh quân sự mới của Mỹ sang Anh nhằm tấn công Đức từ trên cao và sau đó là trên bộ.

5.7. Máy bay chiến đấu tầm xa:

Cuối năm 1943 – Chiến dịch ném bom ban đêm của Anh vào các mục tiêu Đức không thể chính xác và hiệu quả như ném bom ban ngày. Các máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ ném bom vào ban ngày, nhưng ngay cả khi có nhiều xạ thủ trên mỗi máy bay ném bom, họ vẫn phải chịu tổn thất nặng nề trước các máy bay chiến đấu của Luftwaffe.

Sự xuất hiện của các máy bay chiến đấu tầm xa, đặc biệt là P-51 Mustang, cho phép các phi công máy bay chiến đấu của Đồng minh hộ tống các máy bay ném bom hạng nặng đến các mục tiêu của chúng ở Đức và quay trở lại. Điều này làm giảm đáng kể tổn thất của máy bay ném bom và liên tục làm giảm lực lượng của Luftwaffe.

Kết quả là sức mạnh không quân hùng mạnh của đồng minh cuối cùng đã có thể tấn công hiệu quả vào ngành công nghiệp quân sự Đức và các nguồn lực quan trọng của nó hết lần này đến lần khác, đồng thời gây tổn thất nặng nề cho Luftwaffe. Điều này làm suy yếu đáng kể quân Đức trên mọi mặt trận.

Một cuộc oanh tạc dữ dội trên không vào tháng 2 năm 1945 trước cuộc xâm lược trên bộ của quân Đồng minh vào Đức, và vào thời điểm Đức chính thức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5, các lực lượng Liên Xô đã chiếm đóng phần lớn đất nước. Hitler đã chết, tự sát vào ngày 30 tháng 4 trong hầm trú ẩn ở Berlin.

Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng không điều kiện, kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )