* Đại diện theo pháp luật:
Theo Điều 140 Bộ luật dân sự 2005 quy định :
“Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước quyết định”
Căn cứ hình thành: Do ý chí của nhà nước. Pháp luật quy định mối quan hệ đại diện được xác lập dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể.
Người đại diện theo pháp luật theo Điều 141 quy định bao gồm:
“- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
– Người giám hộ đối với người được giám hộ.
– Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
– Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình.
– Tổ trưởng tổ hợp tác đối với hộ gia đình.
– Những người khác theo quy định của pháp luật”.
Về điều kiện đối với người đại diện và người được đại diện:
Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mắc bệnh tâm thần hoăc bệnh khác mà không nhận thức và làm chủ hành vi của mình, người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là những đối tượng mà bản thân họ không thể trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo về quyền lợi của họ trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Các chủ thể còn lại là một tổ chức nên khi tham gia vào các giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể.
Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Và để nhận biết quan hệ đại diện theo pháp luật phải dựa vào các căn cứ:
– Đối với con chưa thành niên căn cứ vào giấy khai sinh
– Đối với người được giám hộ căn cứ vào xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người giám hộ cư trú
– Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự căn cứ vào quyết định của Tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
– Đối với pháp nhân căn cứ vào Đăng ký kinh doanh, Điều lệ hay Quyết định thành lập pháp nhân
– Đối với hộ gia định căn cứ vào Sổ hộ khẩu
– Đối với tổ hợp tác căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
* Đại diện theo ủy quyền:
Khoản 1 Điều 142 Bộ luật dân sự 2005 quy định :
“Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”
Căn cứ xác lập: dựa trên ý chí của hai bên chủ thể, người đại diện và người được đại diện tự thỏa thuận với nhau về nội dung ủy quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền.
Điều kiện của chủ thể tham gia quan hệ đại diện theo ủy quyền: hai bên chủ thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 Bộ luật dân sự 2005:
“Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện”.
Đại diện theo ủy quyền có hai loại: đại diện theo ủy quyền của cá nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
-Đối với đại diện theo ủy quyền của cá nhân thì trong trường hợp vì lý do chủ quan hay khách quan, cá nhân có thể thông qua một cá nhân khác hoặc một pháp nhân để đại diện cho họ xác lập các giao dịch dân sự.
-Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Đối với pháp nhân, theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật dân sự 2005 2005 thì:
“Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Đối với hộ gia đình, theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự 2005:
“Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ trong quan hệ dân sự”.
Đối với tổ hợp tác, khoản 1 Điều 113 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ”.
Như vậy, đối với hộ gia đình và tổ hợp tác thì người được ủy quyền chỉ có thể là thành viên trong hộ gia đình và tổ hợp tác. Còn đối với pháp nhân thì phạm vi những người được ủy quyền cho pháp nhân không được quy định rõ.
Về hình thức ủy quyền: khoản 2 Điều 142 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”.
Hình thức ủy quyền là do các bên tự thỏa thuận với nhau. Đó có thể là hình thức viết tay thông qua hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền, có thể là hình thức miệng. So với Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 quy định hình thức ủy quyền rộng hơn, nó không bắt buộc phải lập thành văn bản như khoản 2 Điều 151 Bộ luật dân sự 1995. Tuy nhiên để đảm bảo cho việc ủy quyền có hiệu lực và được công nhận và để cho Tòa án có căn cứ giải quyết các tranh chấp xảy ra thì các bên phải chứng minh quan hệ ủy quyền đó. Đối với hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền thì phải có công chứng, chứng thực. Đối với ủy quyền bằng miệng thì phải có căn cứ chứng minh quan hệ ủy quyền đó tồn tại hoặc tất cả các bên quan hệ đều phải thừa nhận có quan hệ ủy quyền
Ý nghĩa: Đại diện theo ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.