Theo quy định của pháp hiện hành, hợp đồng lao động chấm dứt trong nhiều trường hợp như : hết thời hạn, đã hoàn thành công việc theo thỏa thuận, một bên đơn phương chấm dứt, người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng, người sử dụng là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự…
Trong đó chấm dứt hợp đồng do xử lý kỉ luật sa thải chiếm số lượng không nhỏ và thường phát sinh tranh chấp xoay quanh vấn đề : Người lao động có được hưởng trợ cấp thôi việc như những trường hợp khác hay không?
Tại điều 126 BLLĐ 2012, có hiệu lực từ 1/5/2013, quy định hình thức kỉ luật sa thải được áp dụng trong những trường hợp sau:
– Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động.
– Người lao động bị xử lý kỉ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỉ luật hoặc bị xử lý kỉ luật cách chức mà tái phạm.
– Người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trọng 1 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 1 năm mà không có lý do chính đáng.
Như vậy, tuy có nhiều hình thức vi phạm khác nhau, song về cơ bản đều là sự vi phạm nghiêm trọng đến nội quy của công ty, nói một cách khác là quan hệ lao động chấm dứt hoàn toàn do lỗi của người lao động, nên mặc dù là một trong những trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động nhưng theo khoản 1 điều 48 BLLĐ 2012 thì khi bị sa thải người lao động không được hưởng trợ cấp thôi việc.
Đây là một trong những điểm mới của BLLĐ 2012 so với BLLĐ 1994 (sửa đổi, bổ sung 2002,2006,2007) . Theo BLLĐ cũ đã hết hiệu lực trường hợp người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong 1 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 1 năm mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị xử lý sa thải nhưng nếu họ đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên thì vẫn được hưởng trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc được hưởng nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có) (Điều 42).
Sự sửa đổi theo hướng có lợi cho chủ sử dụng nêu trên là phù hợp trong tình hình hiện nay, khi mà nền kinh tế khó khăn, rất nhiều doanh nghiệp đã phải rất chật vật để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình. Quan hệ lao động xác lập và duy trì cần có sự thiện chí từ cả hai phía, khi người lao động đã có những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến nội quy lao động, thì người sử dụng có quyền chấm dứt hợp đồng lao động với họ mà không phải trả trợ cấp thôi việc.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Tuy nhiên không có nghĩa là trong trường hợp này người lao động sẽ bị tước hết các quyền lợi, bởi theo điều 47 BLLĐ 2012, người sử dụng vẫn có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của người lao động, hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và các giấy tờ khác mà họ đã giữ lại của người lao động trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Dương Gia:
– Hỏi về hưởng trợ cấp thôi việc và xử lý kỷ luật sa thải
– Thời gian được tính là thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc
– Các trường hợp được hưởng và không được hưởng trợ cấp thôi việc
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: [email protected].
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại