Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Tiểu học Module 15

Hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Tiểu học Module 15 để giúp các bạn hiểu rõ hơn về phương pháp giáo dục với quá trình học tập của học sinh

1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?

1.1. Định hướng phương pháp dạy học tích cực:

Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (01/1993) và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) được thể chế hóa trong Pháp luật (nhiệm kỳ 1-1993), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là Chỉ thị số 15 (4/1999).

Điều 24.2 Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng. Có thể nói, cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tích cực, chống thói quen học tập thụ động.

1.2. Thế nào là tính tích cực học tập?

Tính tích cực (TTC) là phẩm chất vốn có của con người, vì để tồn tại và phát triển, con người phải luôn tích cực, chủ động cải tạo môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, việc hình thành và phát triển các phương tiện truyền thông xã hội là một trong những nhiệm vụ chính của giáo dục. Học tập tích cực - thực chất là TTC nhận thức, được đặc trưng bởi khát vọng hiểu biết, nỗ lực trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình lĩnh hội tri thức. TTC nhận thức trong hoạt động học liên quan trước hết đến động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú.

Hứng thú là tiền đề của nhận thức bản thân.

Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực thúc đẩy suy nghĩ độc lập. Tư duy độc lập là hạt giống của sự sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập, sáng tạo sẽ hình thành tính tự giác, hứng thú và thúc đẩy động cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở các dấu hiệu như: hào hứng trả lời câu hỏi của thầy, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến trước vấn đề đặt ra; hoặc nêu thắc mắc, yêu cầu giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ; tích cực vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào chủ đề đang nghiên cứu; Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản lòng trước những tình huống khó... TTC học tập được thể hiện qua các mức độ từ thấp đến cao.

- Khám phá: độc lập giải bài toán, tìm các cách giải khác nhau cho một số bài toán...

- Sáng tạo: tìm giải pháp mới, độc đáo và hiệu quả.

1.3. Phương pháp dạy học tích cực:

Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là thuật ngữ rút gọn, được sử dụng ở nhiều nước để chỉ các phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. “Tích cực” trong phương pháp dạy học được dùng với nghĩa chủ động, tích cực, trái nghĩa với không chủ động, bị động, không dùng với nghĩa ngược lại. PPDH tích cực nhằm tích cực hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là chú trọng phát huy tính tích cực của HS hơn là chú trọng phát huy tính tích cực của người dạy. Tuy nhiên, để dạy học tích cực giáo viên phải nỗ lực hơn nhiều so với dạy học thụ động. Để thay đổi cách học, chúng ta phải thay đổi cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học nhưng ngược lại thói quen học tập của học sinh cũng ảnh hưởng đến cách dạy của người thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi phương pháp dạy học tích cực nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên chủ động áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng không thành công do học sinh chưa thích nghi. Cũng quen với phương pháp giảng dạy - học thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì sử dụng dạy học tích cực để từng bước xây dựng cho học sinh một phương pháp học tích cực vừa phải, từ thấp đến cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.

1.4. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học làm trung tâm:

Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, các tài liệu giáo dục trong và ngoài nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói về sự cần thiết phải chuyển từ dạy học lấy người dạy làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học lấy người học làm trung tâm, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học lấy học sinh làm trung tâm... Khái quát này nhằm nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học. khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay nhấn mạnh hoạt động dạy học và vai trò của giáo viên. Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong một trường học mà giáo viên dạy một lớp đông học sinh, cùng lứa tuổi, trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó quan tâm đến từng học sinh nên phương pháp dạy học gặp nhiều vấn đề.  Nhiệm vụ đầu tiên của người giáo viên là làm tròn trách nhiệm truyền đạt nội dung đã quy định trong chương trình, sách giáo khoa, cố gắng làm cho học sinh nào cũng hiểu, nhớ những điều giáo viên dạy. Cách dạy này tạo nên sự thụ động, ghi nhớ, và lối học mang tính tư duy thấp làm hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại, các nhà giáo dục kêu gọi phát huy tính tích cực của học sinh, thực hiện “dạy học phân hóa”, trọng tâm vào nhu cầu và khả năng của từng cá nhân học sinh trong nhóm.Thực tế trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy vừa là chủ thể của hoạt động học. Người học phải tích cực tự hoàn thiện mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, nhân cách, nếu không có phương pháp học tập tốt thì hiệu quả dạy học sẽ rất hạn chế, nếu vị trí, vai trò tích cực của học sinh nhấn mạnh, cần phát huy tính tích cực của người học một cách tự nhiên. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là tư tưởng giáo dục, quan điểm, cách tiếp cận quá trình dạy học, chi phối mọi quá trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, kiểm tra đánh giá,... có liên quan đến phương pháp dạy và học.

2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực:

2.1. Dạy và học thông qua các tổ chức hoạt động của học sinh:

Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, các tài liệu giáo dục trong và ngoài nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói về sự cần thiết phải chuyển từ dạy học lấy người dạy làm trung tâm sang dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Khái quát này nhằm nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học. khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay nhấn mạnh hoạt động dạy học và vai trò của giáo viên. Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong một trường học mà giáo viên dạy một lớp đông học sinh, cùng lứa tuổi, trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó quan tâm đến từng học sinh nên phương pháp dạy học gặp nhiều vấn đề. Nhiệm vụ đầu tiên của người thầy là làm tròn trách nhiệm truyền đạt nội dung đã quy định trong chương trình, sách giáo khoa, cố gắng làm cho học sinh nào cũng hiểu, nhớ những điều thầy dạy. Cách dạy này tạo nên tính thụ động, tính ghi nhớ, ý thức học tập thấp làm hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Giáo dục kêu gọi phát huy tính tích cực của học sinh, thực hiện “dạy học phân hóa”, chú trọng nhu cầu và khả năng của từng cá nhân học sinh trong nhóm. Trong thực tế, trong quá trình dạy học, người học vừa là khách thể của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học. Người học phải tích cực hoàn thiện bản thân về kiến thức, kỹ năng, thái độ và nhân cách. Nếu không có phương pháp học tập tốt thì hiệu quả dạy học sẽ hiệu quả. Sẽ rất hạn chế, nếu nhấn mạnh vị trí, vai trò chủ động của người học, tức là phát huy tính tích cực của người học một cách tự nhiên. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là tư tưởng giáo dục, quan điểm, cách tiếp cận quá trình dạy học, chi phối mọi quá trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, kiểm tra đánh giá, có liên quan đến phương pháp dạy và học.

2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học:

Phương pháp tích cực coi việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong một xã hội hiện đại đang thay đổi nhanh chóng - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - việc nhồi nhét vào đầu óc học sinh một khối lượng kiến thức ngày càng lớn là rất khó. Phải chú ý dạy cho học sinh phương pháp học tập ngay từ cấp tiểu học và càng lên cấp học cao càng phải chú trọng. Trong các phương pháp học, cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho học sinh phương pháp, kỹ năng, thói quen và ý chí tự học sẽ khiến các em ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay, người ta đề cao mặt tích cực của học tập trong quá trình dạy học, cố gắng chuyển từ học tập thụ động sang tự học tích cực, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong nhà trường phổ thông chứ không phải trong nhà trường. 

2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:

Trong một lớp học mà trình độ kiến thức và tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực phải chấp nhận sự khác biệt về cường độ và tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế theo chuỗi các hoạt động độc lập. 

Việc áp dụng các phương pháp tích cực càng cao thì sự phân chia này càng lớn. Việc sử dụng công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập không phải mọi kiến thức, kĩ năng và thái độ đều được hình thành từ hoạt động độc lập của cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong nhóm, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hoặc phủ nhận, qua đó người học tự nâng mình lên một tầm cao mới. Bài học áp dụng kiến thức và kinh nghiệm sống của giáo viên. Trong nhà trường, học hợp tác được tổ chức ở cấp tổ, nhóm, lớp, trường. Thường dùng trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Học hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là khi giải các bài toán khó, khi thực sự cần sự hợp tác của cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động nhóm nhỏ sẽ không có hiện tượng ỷ lại; Khả năng của mỗi thành viên được bộc lộ, hun đúc, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác xã hội được đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen với việc phân công hợp tác trong công tác xã hội. Trong nền kinh tế thị trường cần có sự hợp tác xuyên quốc gia, xuyên quốc gia; Khả năng hợp tác phải trở thành mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.

3. Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển:

3.1. Phương pháp vấn đáp:

Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp giáo viên đặt câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với giáo viên; qua đó học sinh nắm được nội dung bài học. Căn cứ vào bản chất của hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp đặt câu hỏi:

- Vấn đáp lặp: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ chứ không suy luận. Đặt câu hỏi lặp đi lặp lại không được coi là một phương pháp có giá trị sư phạm. Là biện pháp dùng khi cần liên hệ giữa các kiến thức mới học.

- Vấn đáp giải thích - minh họa: Để làm sáng tỏ một chủ đề nào đó, giáo viên lần lượt đặt câu hỏi kèm theo ví dụ minh họa để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn.

Vấn đáp (đàm thoại Oscritic): giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng dẫn học sinh từng bước khám phá bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang khảo sát, khơi gợi cảm hứng. Giáo viên tổ chức trao đổi ý kiến - bao gồm cả tranh luận - giữa giáo viên và cả lớp, đôi khi giữa học sinh với học sinh, để giải quyết một vấn đề cụ thể. Trong hoạt động hỏi - đáp, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động tìm hiểu, còn học sinh là người tự lực khám phá tri thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc trò chuyện, học sinh có niềm vui khi khám phá ra một bước xa hơn về cấp độ tư duy.

3.2. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:

Trong một xã hội phát triển nhanh chóng theo cơ chế thị trường và sự cạnh tranh gay gắt, việc phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là khả năng bảo đảm thành công trong cuộc sống, đặc biệt là trong cuộc sống. Vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng phát hiện, đặt ra và giải quyết các vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp dạy học. Nó cũng có ý nghĩa đối với phương pháp giảng dạy phải được coi là mục tiêu giáo dục và đào tạo. Cấu trúc một bài (hoặc một phần) theo phương pháp đặt và giải thường như sau:

- Đặt vấn đề, xây dựng vấn đề nhận thức:

Tạo tình huống có vấn đề;

Phát hiện và xác định các vấn đề mới phát sinh;

Phát hiện vấn đề cần giải quyết

- Giải quyết vấn đề đặt ra:

Đề xuất một cách giải quyết;

Lập phương án giải quyết;

Lập kế hoạch giải quyết.

- Kết luận:

Thảo luận về kết quả và đánh giá;

Xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết đã nêu;

Tuyên bố đóng cửa;

Đề xuất một vấn đề mới

Bốn cấp độ giải quyết vấn đề và giải quyết vấn đề có thể được phân biệt:

Mức độ 1: Giáo viên nêu vấn đề và hướng dẫn giải. Học sinh giải bài toán theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá bài làm của học sinh.

Mức độ 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm cách giải quyết vấn đề. Học sinh làm việc để giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần thiết. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức độ 3: Giáo viên cung cấp thông tin để tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất giả thuyết và lựa chọn giải pháp. HS thực hành giải bài tập. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.

Mức độ 4: HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong tình huống của bản thân hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề để giải quyết. HS tự giải bài tập, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, cuối bài có nhận xét bổ sung của GV.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )