Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 14

Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 14, để giúp các bạn nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với giáo viên

1. Vai trò của ngoại ngữ:

Thế giới ngày càng phát triển, vai trò của ngoại ngữ ngày càng nâng cao. Cùng với sự hội nhập và phát triển của các nước công nghiệp phát triển và có thể mạnh trên thế giới cũng như ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, ngoại ngữ đã trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực, giúp các nước liên kết với nhau, là cầu nối để phát triển nền kinh tế thế giới.

Giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam nói riêng cũng đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Có thể khẳng định, việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo và trong các trường đại học được coi trọng hàng đầu. Bộ GD-ĐT đề ra mục tiêu “5% cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2015 và 30% vào năm 2020”. (Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ).

2. Quy định về chứng chỉ ngoại ngữ mới nhất của giáo viên:

Hiện nay, theo quy định, tất cả giáo viên phải đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Yêu cầu về ngoại ngữ của giáo viên các bậc học và vị trí giảng dạy là không giống nhau. Dưới đây là quy định về chứng chỉ ngoại ngữ với giáo viên mới nhất.
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam

Theo Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT, khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam gồm 6 bậc, cụ thể:

KNLNNVN (6 bậc)

CEFR (Khung tham chiếu Châu âu)

Sơ cấp

Bậc 1

A1

Bậc 2

A2

Trung cấp

Bậc 3

B1

Bậc 4

B2

Cao cấp

Bậc 5

C1

Bậc 6

C2

3. Tiêu chuẩn về trình độ ngoại ngữ của giáo viên các cấp:

3.1. Trình độ ngoại ngữ cấp 1:

Hạng giáo viên

Vị trí giảng dạy

Yêu cầu trình độ ngoại ngữ

Giáo viên tiểu học hạng II

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A2 (bậc 2)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A2 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên tiểu học hạng III

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A2 (bậc 2)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A2 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên tiểu học hạng IV

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A1 (bậc 1)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A1 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

3.2. Trình độ ngoại ngữ giáo viên cấp 2:

Hạng giáo viên

Vị trí giảng dạy

Yêu cầu trình độ ngoại ngữ

Giáo viên THCS hạng I

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- B1 (bậc 3)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- B1 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên THCS hạng II

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A2 (bậc 2)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A2 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên THCS hạng III

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A1 (bậc 1)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A1 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

3.3. Trình độ ngoại ngữ giáo viên cấp 3:

Hạng giáo viên

Vị trí giảng dạy

Yêu cầu trình độ ngoại ngữ

Giáo viên THPT hạng I

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- B1 (bậc 3)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc.

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- B1 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên THPT hạng II

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A2 (bậc 3)

hoặc

- Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc.

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A2 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

Giáo viên THPT hạng III

Giáo viên không dạy ngoại ngữ

- A2 (bậc 2)

hoặc

Chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc.

Giáo viên dạy ngoại ngữ

- A2 (yêu cầu với ngoại ngữ thứ 2)

4. Vì sao phải nâng cao năng lực ngoại ngữ của giáo viên:

Năng lực ngoại ngữ của giáo viên mầm non sẽ giúp cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, hơn thế chương trình giáo dục mầm non là cơ sở để các em tiếp thu những kiến thức mới trong chương trình học tập ở những năm tiếp theo. Đồng thời nghiên cứu chỉ ra rằng ở những năm đầu đời, trẻ em sẽ dễ học ngoại ngữ hơn, bởi vì lúc này trẻ em đang ở độ tuổi học tập và tiếp thu kiến thức nhanh.

Đây là khẳng định của GS.PGS.TS.Nguyễn Thị Mỹ Trinh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Mầm non, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam khi trao đổi về chuẩn năng lực ngoại ngữ trong dự thảo chuẩn. Nghề giáo viên mầm non đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy ý kiến.

Theo PGS. PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Trinh, yêu cầu về năng lực ngoại ngữ đối với giáo viên mầm non được thể hiện tại Thông tư số 20 năm 2015 của Bộ GD-ĐT, đây là cơ sở pháp lý. chuẩn năng lực ngoại ngữ sắp tới.

Cụ thể, yêu cầu về năng lực ngoại ngữ đối với người có trình độ trung cấp sư phạm mầm non: Người tốt nghiệp trung cấp sư phạm mầm non phải có kết quả học tập đạt chuẩn đầu ra, phải đáp ứng yêu cầu. Yêu cầu về năng lực ngoại ngữ trong quá trình đào tạo theo chương trình.

Ngay tại các trường đào tạo giáo viên mầm non như: Cao đẳng sư phạm Nha Trang; Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP.HCM; Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, Cao đẳng Sư phạm Trung ương), Tiếng Anh hoặc ngoại ngữ khác được thiết kế thành 1 học phần (gồm 3 hoặc 4 tín chỉ) hoặc 2 học phần (mỗi học phần gồm 3 tín chỉ tương đương 45 tiết chuẩn).

“Như vậy, năng lực tiếng Anh của người có trình độ trung cấp sư phạm mầm non không thể thấp hơn 1/6 khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

Còn đối với người có bằng tốt nghiệp Cao đẳng ngành Giáo dục mầm non trở lên, đáp ứng chuẩn đầu ra của Chương trình đào tạo thì năng lực ngoại ngữ không được thấp hơn 2/6 của Khung năng lực nói trên”, PGS.TS Trình nói.

Thực tế, tại Thông tư số 20 như đã nói ở trên, giáo viên mầm non được xếp theo 3 bậc từ thấp đến cao, trong đó thấp nhất giáo viên mầm non bắt buộc phải có trình độ ngoại ngữ bậc 1 Khung 6 bậc dùng cho Việt Nam.

Với cơ sở như vậy, PGS. PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Trinh cho rằng, cần thiết chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non phải đạt năng lực ngoại ngữ nhất định như trong dự thảo.

Về thực tiễn, có một số cơ sở để thấy rằng chuẩn năng lực ngoại ngữ trong dự thảo là hoàn toàn cần thiết.

Đơn cử như hiện nay, số lượng và trình độ đào tạo của giáo viên mầm non chưa được đào tạo về ngoại ngữ phù hợp.

Theo thống kê mới nhất của Bộ GD-ĐT, toàn ngành hiện có 440.275 cán bộ quản lý và giáo viên mầm non, trong đó có 294.655 giáo viên mầm non.

Số giáo viên mầm non có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên chiếm 98,7%, trong đó 65,1% giáo viên mầm non có trình độ cao đẳng sư phạm trở lên. Còn một bộ phận lớn, chiếm 33,6% giáo viên mầm non có trình độ trung cấp sư phạm.

“Bộ phận này nếu được đào tạo bài bản chắc chắn sẽ đáp ứng được yêu cầu về năng lực ngoại ngữ theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, nếu đào tạo không bài bản thì trẻ cần phải tự nâng cao trong giai đoạn tiếp theo. Phù hợp với quy định của Thông tư liên tịch số 20, qua đó đồng thời đáp ứng yêu cầu của Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non mới”, bà Trinh nhấn mạnh.

PGS. PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Trinh cũng khẳng định, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc nâng cao chất lượng thực hiện Chương trình giáo dục mầm non là vô cùng cần thiết. 

Được biết, Chương trình giáo dục mầm non hiện hành cho phép nhà trường xây dựng chương trình giáo dục nhà trường phù hợp, khuyến khích giáo viên linh hoạt, sáng tạo trong việc thực hiện chương trình bằng cách chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp. Việc nâng cao năng lực ngoại ngữ của giáo viên mầm non góp phần tích cực giúp nâng cao chất lượng giảng dạy. Chính vì thế chúng ta cần phải tăng cường nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ ở cấp tiểu học, để chất lượng giáo dục nâng cao

Ngoài ra, hiện nay, nhu cầu cho trẻ mầm non Việt Nam làm quen với tiếng Anh/ngoại ngữ tại các cơ sở giáo dục mầm non ngày càng cao.

 

    5 / 5 ( 1 bình chọn )